1/1.1 Từ cuối những năm 1960 trở lại đây những nghiên cứu về giới trở thành một trong những quan tâm được ưu tiên hàng đầu trong khoa học nhân văn. Và điều này là có lí do.
Theo David Glover và Cora Kapla, thuật ngữ “gender” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1963 trong Sex in Society [Sex trong xã hội] của Alex Comfort – một nghiên cứu thuộc về tình dục học (sexology) nhưng thuật ngữ này chỉ thật sự nhận được sự quan tâm đặc biệt với công trình Sex and Gender: On the Development of Masculinity and Femininity (1968) [Giới và giới tính[1]: về sự phát triển của nam tính và nữ tính] của Robert J. Stoller. Như được nhận thấy ngay từ trong nhan đề của cuốn sách, gender bắt đầu được nhìn nhận trong sự khu biệt với sex. Với Stoller, sex thuộc về sinh vật học còn gender thuộc phạm vi của tâm lí học. Hai năm sau, Kate Millett viết lại luận điểm của Stoller với một hiệu chỉnh nhỏ nhưng đặc biệt quan trọng: “sex thuộc về sinh vật học, gender thuộc về tâm lí học, và vì thế thuộc về văn hóa”[2]. Chính nét nghĩa cuối cùng trong định nghĩa về gender của Kate Millett đã tạo ra sự đối lập giữa sex và gender như là sự đối lập giữa tự nhiên và văn hóa. Bắt đầu từ đây, những nghiên cứu về gender có được sự quan tâm đặc biệt bởi lẽ nó là một đầu mối quan trọng để kiến tạo nên phạm trù chủ thể (subject) – một phạm trù luôn ám ảnh trong những suy tư triết học về con người.