Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2014

DIỄN NGÔN VỀ GIỚI TÍNH VÀ THI PHÁP NHÂN VẬT (TRƯỜNG HỢP CỦA DŨNG TRONG ĐOẠN TUYỆT )

1/1.1 Từ cuối những năm 1960 trở lại đây những nghiên cứu về giới trở thành một trong những quan tâm được ưu tiên hàng đầu trong khoa học nhân văn. Và điều này là có lí do.
Theo David Glover và Cora Kapla, thuật ngữ “gender” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1963 trong Sex in Society [Sex trong xã hội] của Alex Comfort – một nghiên cứu thuộc về tình dục học (sexology) nhưng thuật ngữ này chỉ thật sự nhận được sự quan tâm đặc biệt với công trình Sex and Gender: On the Development of Masculinity and Femininity (1968) [Giới và giới tính[1]: về sự phát triển của nam tính và nữ tính] của Robert J. Stoller. Như được nhận thấy ngay từ trong nhan đề của cuốn sách, gender bắt đầu được nhìn nhận trong sự khu biệt với sex. Với Stoller, sex thuộc về sinh vật học còn gender thuộc phạm vi của tâm lí học. Hai năm sau, Kate Millett viết lại luận điểm của Stoller với một hiệu chỉnh nhỏ nhưng đặc biệt quan trọng: “sex thuộc về sinh vật học, gender thuộc về tâm lí học, và vì thế thuộc về văn hóa[2]. Chính nét nghĩa cuối cùng trong định nghĩa về gender của Kate Millett đã tạo ra sự đối lập giữa sex gender như là sự đối lập giữa tự nhiênvăn hóa. Bắt đầu từ đây, những nghiên cứu về gender có được sự quan tâm đặc biệt bởi lẽ nó là một đầu mối quan trọng để kiến tạo nên phạm trù chủ thể (subject) – một phạm trù luôn ám ảnh trong những suy tư triết học về con người.

NAM TÍNH HÓA NỮ TÍNH – ĐỌC ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH TỪ GÓC NHÌN GIỚI TÍNH

I. Dẫn nhập

Ngay từ khi ra đời, Đoạn tuyệt đã được dư luận quan tâm đặc biệt. Trương Tửu đánh giá Đoạn tuyệt “là một vòng hoa tráng lệ đặt trên đầu chủ nghĩa cá nhân. Tác giả của nó đường hoàng công nhận sự tiến bộ và hăng hái tín ngưỡng tương lai”, “là một cuốn tiểu thuyết kiệt tác, phi nhà nghề không viết nổi”[1]. Hơn thế, cuốn tiểu thuyết đã gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi trên báo chí mà sự kiện nổi bật là sự phản ứng của Nguyễn Công Hoan không chỉ bằng bài báo[2] mà bằng cả một cuốn tiểu thuyết: Cô giáo Minh. Trong trường hợp này, khả năng chia rẽ độc giả của Đoạn tuyệt cho thấy nó đã trở thành tâm điểm của đời sống xã hội và văn hóa Việt Nam khi mang trong mình những xung đột của truyền thống và hiện đại. Thời gian qua đi và địa vị của Đoạn tuyệt cũng được xác lập một cách khách quan và chắc chắn hơn. Năm 1943, Dương Quảng Hàm viết Việt nam văn học sử yếu – công trình đặt nền móng cho mọi khảo luận về văn học sử sau này – đánh giá Đoạn tuyệt như là tác phẩm tiêu biểu không chỉ riêng cho Nhất Linh mà còn cho toàn bộ văn đoàn[3]. Từ đó đến nay, vị thế này của Đoạn tuyệt vẫn luôn được khẳng định trong các bộ văn học sử hoặc trong các công trình nghiên cứu chuyên sâu về Tự Lực Văn Đoàn. Điều thú vị là, ngay cả với những người có quan điểm khe khắt với Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn thì Đoạn tuyệt vẫn được đánh giá một cách khá tích cực. Hoàng Dung nói đến nội dung chống lễ giáo phong kiến của Đoạn tuyệt[4]. Phan Cự Đệ cũng đánh giá Đoạn tuyệt là “tác phẩm lãng mạn tiến bộ vì ở đây các nhân vật đã biết đấu tranh chống lại sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến để xây dựng một cuộc sống mới đẹp đẽ hơn, nhân bản đạo hơn”[5].
Tựu chung, giá trị của Đoạn tuyệt được nhấn mạnh ở những phương diện sau:
          - phê phán đại gia đình phong kiến
          - cổ vũ cho giải phóng người phụ nữ, mở rộng hơn là giải phóng cá nhân
          - có nội dung dân tộc nhưng còn mờ nhạt
Dựa trên sự phân tích tương quan quyền lực giới tính trong hiện tượng nam tính hóa nữ tính ở nhân vật Loan, bài viết của chúng tôi sẽ thẩm định lại một số vấn đề sau:
- giới hạn của cái gọi là giải phóng phụ nữ trong Đoạn tuyệt thực chất là gì? Giải phóng phụ nữ ở Đoạn tuyệt phải chăng là sự đấu tranh để xác lập một hệ giá trị mới của riêng người phụ nữ?
- nội dung dân tộc trong Đoạn tuyệt phải chăng là mờ nhạt? có hay không mối quan hệ giữa diễn ngôn về giải phóng người phụ nữ và vấn đề dân tộc? và nếu có thì nó được thể hiện thế nào trong hình tượng người phụ nữ?

TỪ THẰNG QUỶ NHỎ CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH NGHĨ VỀ NHỮNG PHẨM CHẤT CỦA MỘT TÁC PHÂM VIẾT CHO THIẾU NHI

1/ 1.1 Không sợ sai nhưng cũng không mấy thú vị khi phải đưa ra nhận xét: văn học thiếu nhi Việt Nam hiện nay có khả năng tác động đến nhân cách trẻ em không rõ nét như ở giai đoạn trước. Từ sau 1954 kéo dài đến 1986 những tiêu chuẩn về con người mới xã hội chủ nghĩa là định hướng chiến lược cho những sáng tác của văn học thiếu nhi. Vì đây là chủ trương và chính sách của Đảng và nhà nước nên đúng là có hiện tượng bao cấp tư tưởng trong những sáng tác về đề tài thiếu nhi; tuy nhiên, một chiến lược xây dựng nhân cách có bài bản của thời kì này cũng đã góp phần không nhỏ cho sự  xuất hiện của  một loạt những thành tựu trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, Đoàn Giỏi, Võ Quảng, Phạm Hổ, Hà Ân, Tô Hoài ...
Những sáng tác cho thiếu nhi trong văn học Việt Nam hiện nay không đưa lại cho chúng ta cảm giác về một nền văn học thiếu nhi phát triển và có vai trò xã hội tương xứng với sự kì vọng của xã hội. Số lượng những cây bút chuyên viết cho thiếu nhi không nhiều và cũng không có khả năng hấp dẫn với bạn đọc nhỏ tuổi. Tồn tại một nghịch lí: các nhà văn Việt Nam sống chật vật trong khi cả một mảng thị trường văn học thiếu nhi bị bỏ mặc cho những tác phẩm dịch làm mưa làm gió với đủ mọi đề tài từ chú mèo Đô-rê-mon qua thám tử nhí Conal đến Bảy viên ngọc rồng... Một cách công bằng thì phải kể đến sự thành công đặc biệt trong những sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh. Nhưng hiện tượng này, theo tôi, là một ngoại lệ. Nghĩa là nó góp phần làm nổi bật qui luật hơn là phản biện qui luật.

NGƯỜI TRÍ THỨC DẤN THÂN VÀ TẦM VÓC CỦA MỘT CÔNG TRÌNH KHOA HỌC (Đọc Văn học khái luận (1944) của Đặng Thai Mai)

1. Với nhiều người, tên tuổi của Đặng Thai Mai trước tiên gắn liền với Văn học khái luận. Là cuốn sách đầu tay của ông, một phần, nhưng quan trọng hơn còn bởi tầm vóc và những ảnh hưởng lâu dài của nó trong đời sống học thuật[1]. Trong mọi biên khảo, miêu tả chuyên nghiệp về lịch sử nghiên cứu và phê bình của văn học Việt Nam thế kỉ XX, Văn học khái luận luôn có một vị trí không thể thay thế. Và mặc dù ra đời năm 1944, với chưa đầy 200 trang, cuốn sách này vẫn có một ảnh hưởng sâu rộng đến những công trình lí luận và phê bình, nghiên cứu văn học sử của Việt Nam suốt nhiều thập kỉ sau đó – một ảnh hưởng, phần nhiều không ở những trích dẫn, những luận điểm cụ thể mà ở khả năng định hướng.