Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2014

NAM TÍNH HÓA NỮ TÍNH – ĐỌC ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH TỪ GÓC NHÌN GIỚI TÍNH

I. Dẫn nhập

Ngay từ khi ra đời, Đoạn tuyệt đã được dư luận quan tâm đặc biệt. Trương Tửu đánh giá Đoạn tuyệt “là một vòng hoa tráng lệ đặt trên đầu chủ nghĩa cá nhân. Tác giả của nó đường hoàng công nhận sự tiến bộ và hăng hái tín ngưỡng tương lai”, “là một cuốn tiểu thuyết kiệt tác, phi nhà nghề không viết nổi”[1]. Hơn thế, cuốn tiểu thuyết đã gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi trên báo chí mà sự kiện nổi bật là sự phản ứng của Nguyễn Công Hoan không chỉ bằng bài báo[2] mà bằng cả một cuốn tiểu thuyết: Cô giáo Minh. Trong trường hợp này, khả năng chia rẽ độc giả của Đoạn tuyệt cho thấy nó đã trở thành tâm điểm của đời sống xã hội và văn hóa Việt Nam khi mang trong mình những xung đột của truyền thống và hiện đại. Thời gian qua đi và địa vị của Đoạn tuyệt cũng được xác lập một cách khách quan và chắc chắn hơn. Năm 1943, Dương Quảng Hàm viết Việt nam văn học sử yếu – công trình đặt nền móng cho mọi khảo luận về văn học sử sau này – đánh giá Đoạn tuyệt như là tác phẩm tiêu biểu không chỉ riêng cho Nhất Linh mà còn cho toàn bộ văn đoàn[3]. Từ đó đến nay, vị thế này của Đoạn tuyệt vẫn luôn được khẳng định trong các bộ văn học sử hoặc trong các công trình nghiên cứu chuyên sâu về Tự Lực Văn Đoàn. Điều thú vị là, ngay cả với những người có quan điểm khe khắt với Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn thì Đoạn tuyệt vẫn được đánh giá một cách khá tích cực. Hoàng Dung nói đến nội dung chống lễ giáo phong kiến của Đoạn tuyệt[4]. Phan Cự Đệ cũng đánh giá Đoạn tuyệt là “tác phẩm lãng mạn tiến bộ vì ở đây các nhân vật đã biết đấu tranh chống lại sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến để xây dựng một cuộc sống mới đẹp đẽ hơn, nhân bản đạo hơn”[5].
Tựu chung, giá trị của Đoạn tuyệt được nhấn mạnh ở những phương diện sau:
          - phê phán đại gia đình phong kiến
          - cổ vũ cho giải phóng người phụ nữ, mở rộng hơn là giải phóng cá nhân
          - có nội dung dân tộc nhưng còn mờ nhạt
Dựa trên sự phân tích tương quan quyền lực giới tính trong hiện tượng nam tính hóa nữ tính ở nhân vật Loan, bài viết của chúng tôi sẽ thẩm định lại một số vấn đề sau:
- giới hạn của cái gọi là giải phóng phụ nữ trong Đoạn tuyệt thực chất là gì? Giải phóng phụ nữ ở Đoạn tuyệt phải chăng là sự đấu tranh để xác lập một hệ giá trị mới của riêng người phụ nữ?
- nội dung dân tộc trong Đoạn tuyệt phải chăng là mờ nhạt? có hay không mối quan hệ giữa diễn ngôn về giải phóng người phụ nữ và vấn đề dân tộc? và nếu có thì nó được thể hiện thế nào trong hình tượng người phụ nữ?
II. Nam tính hóa nữ tính và hình tượng người phụ nữ Mới
II.1 Lịch sử tiếp nhận Đoạn tuyệt cho thấy, đối với giới nghiên cứu, về căn bản Đoạn tuyệt là câu chuyện của Loan. Một cách trực quan, nhan đề của cuốn tiểu thuyết dường như cũng là để dành cho cô. Tuy nhiên, hạt nhân trong tính cách của Loan, không gì khác, chính là khát vọng được trở thành Dũng, được có những phẩm chất của Dũng, được sống cuộc đời của Dũng. Toàn bộ những hoạt động, lời nói cho đến những biểu hiện sâu kín nhất trong nội tâm của Loan đều có thể được quy chiếu đến khát vọng này. Những xung đột của Loan với Thân, với bà mẹ chồng cay nghiệt chỉ xuất hiện ở phần giữa tác phẩm nhưng khát vọng được sống cuộc đời của Dũng thì đã xuất hiện ngay từ những dòng đầu tiên khi Nhất Linh miêu tả nội tâm người nữ nhân vật của mình:
“Loan nhìn Dũng, ngắm nghía vẻ mặt cương quyết, rắn rỏi (TVT nhấn mạnh) của bạn, nghĩ thầm: ‘Học thức mình không kém gì Dũng, sao lại không thể như Dũng, sống một cuộc đời tự lập, cường tráng (TVT nhấn mạnh), can chi cứ quanh quẩn trong vòng gia đình, yếu ớt sống một cuộc đời nương dựa vào người khác”[6].
Mở rộng hơn, trong toàn bộ tác phẩm, dù đa dạng trong chi tiết nhưng hình ảnh Dũng trong Loan luôn chỉ có một thuộc tính duy nhất: vẻ đẹp của một cuộc sống tự do, phóng khoáng, không trói buộc. Có thể nói, không phải Dũng mà chính cuộc sống của Dũng mới là tình yêu đích thực mà Loan hướng đến. Yêu Dũng, hạnh phúc của Loan không chỉ là được nhìn thấy, được sống với Dũng mà quan trọng hơn còn là để sống như Dũng. Khi sống với Thân, trong cuộc sống vật chất đủ đầy Loan vẫn luôn cảm thấy đau khổ vì cuộc sống của cô hoàn toàn đối lập với cuộc sống của Dũng. Ngược lại, sau khi được xử trắng án, ra tù, phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong mưu sinh nhưng Loan vẫn rất hạnh phúc vì đấy chính là lúc cô được sống cuộc đời của Dũng:
“Loan thấy trong lòng sung sướng vì nàng nhận ra rằng nàng không lầm, sự ao ước bấy lâu sống một cuộc đời khoáng đạt là sự ao ước đích đáng do sự nhu cầu thiết thực của tâm hồn mà ra. Có sống thế này, nàng mới cảm thấy rõ cái buồn tẻ trống không, một cuộc đời sống dựa vào người khác, sống dựa vào gia đình, quanh quẩn trong vòng lễ nghi phiền phức. Có sống thế này, nàng mới được nếm cái vui thú của sự làm việc, của sự phấn đấu, nàng mới nhận thấy cái giá trị của một cuộc đời rộng rãi tự lập”[7].
Trong đoạn văn, không có hình ảnh của Dũng hiện diện một cách trực tiếp. Tất cả chỉ là những cảm nhận, những trải nghiệm mới mẻ của Loan trong cuộc đời mới. Tuy nhiên, có thể thấy những trải nghiệm này chính là tiếng vọng, là sự vang hưởng từ những trải nghiệm trong cuộc đời của Dũng. Không cần có Dũng hiện diện nữa vì từ đây Loan đã đồng nhất mình hoàn toàn với Dũng. Tác phẩm khép lại với hình ảnh của Loan qua lời miêu tả của Thảo:
“Hiện giờ có một người sung sướng. Người đó đương đi ngoài mưa gió, quên cả mưa ướt và gió lạnh”[8].
Như ta đã thấy trong tác phẩm, không gian phương xa với mưa ướt và gió lạnh là không gian dành riêng cho Dũng. Không gian ấy giờ đây đã hoàn toàn thuộc về Loan. Loan và Dũng đã nhập làm một. Có thể nói, từ mơ ước trở thành Dũng và cuối cùng hoàn toàn đồng nhất với Dũng – đấy chính là logic cho sự phát triển tính cách của Loan.
 Từ cách đặt vấn đề này, chúng tôi đặc biệt lưu ý sự kiện: sau khi sinh đứa con trai đầu lòng (sau này bị chết vì bệnh tật do cách chạy chữa mê tín của gia đình chồng) Loan đã không thể có con được nữa. Những nghiên cứu kinh điển về Đoạn tuyệt ít nhiều đều nhắc đến chi tiết này nhưng vẫn chưa dành cho nó một sự phân tích thỏa đáng từ khía cạnh giới tính. Có một thực tế là, trong truyền thống, ở Việt Nam cũng như các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của Nho giáo thì:
Chịu sự quy định này, yếu tố quyết định làm nên bản sắc nữ tính và giá trị của người phụ nữ là ở khả năng sinh con, đặc biệt là con trai. Chỉ khi có con trai thì người phụ nữ mới có thể hoàn tất vai trò nữ tính của mình với tư cách làm vợ và làm mẹ. Sự kiện Loan không thể có khả năng có con và sau đó bị mất đứa con trai khiến những vai nữ tính của cô theo trật tự truyền thống đã hoàn toàn bị xóa bỏ. Có lẽ, chỉ vào tình thế đó Loan mới có thể hoàn toàn trở thành người đối lập với gia đình chồng và là nguyên nhân trực tiếp đưa đến sự kiện Thân lấy Tuyết; những bi kịch tiếp sau đó chỉ là những hệ quả tất yếu phải xảy ra. Hiển nhiên đây là một bi kịch. Nhưng dường như đấy không phải là điểm nhấn quan trọng nhất mà Nhất Linh muốn hướng tới. Đã từng có ý kiến nhận xét cho rằng nỗi đau mất con của Loan chưa được Nhất Linh quan tâm một cách đúng mức[10]. Theo chúng tôi, sở dĩ có sự “sơ xuất” này, là bởi vì: với Nhất Linh, từ bỏ những vai giới tính (gender roles) truyền thống là điều kiện quan trọng nhất để Loan có thể “đoạn tuyệt” với những ràng buộc của gia đình chồng. Nói cách khác, trước khi trắng án với tội danh giết chồng, Loan chỉ có thể sống cuộc đời của Dũng khi cô đã “trắng nợ” với những vai giới tính được quy định bởi khuôn khổ của gia đình truyền thống. Với sự kiện này, sự đồng nhất, thậm chí là về mặt sinh học, giữa Loan và Dũng đã được tô đậm hơn.
Tóm lại, trong Đoạn tuyệt, Loan được xây dựng như là hiện thân của một nữ tính đã được nam tính hóa (masculinized femininity) một cách triệt để. Nữ tính của Loan bị nam tính hóa không chỉ trong học thức, lối sống, cách suy nghĩ mà cả trong con người sinh học. Có thể nói đến ở đây một sự khủng hoảng về bản sắc nữ tính và nhân vật nữ kiếm tìm những thuộc tính mới mẻ cho giới tính của mình bằng cách tiến đến và đồng nhất với những biểu hiện của nam tính.
Có một điều thú vị là xu hướng nam tính hóa nữ tính này đã được bà Nguyễn Thị Kiêm[11] - một đại diện tiêu biểu cho phong trào nữ quyền lúc bấy giờ - nhận diện như một đặc điểm nổi bật của xã hội Việt Nam thời kì này: “mới đây có sự cách mạng rất đáng chú ý ở làng văn nữ giới là sự ‘nam hóa’ (la masculinisation) nghĩa là sự đàn bà muốn hóa theo đàn ông”. Người phụ nữ trong thời đại mới, theo tổng kết của Nguyễn Thị Kiêm, trên tất cả mọi phương diện: “tư tưởng, học thức, giáo dục, hành động đều muốn như bạn nam nhi để mưu lấy quyền lợi bình đẳng ở xã hội”[12]. Và, có lẽ, biểu hiện sinh động nhất cho khuynh hướng “nam hóa” này trong tiểu thuyết chính là tình yêu mà Loan đã dành cho Dũng trong Đoạn tuyệt. Chủ đề về giải phóng người phụ nữ  khỏi sự kìm kẹp của đại gia đình phong kiến như các nghiên cứu trước đó về Đoạn tuyệt đã chỉ ra là có thật. Chỉ có điều, cần phải bổ sung thêm một khía cạnh khác: người phụ nữ hăm hở giải phóng mình khỏi lễ giáo phong kiến nhưng không phải để kiến tạo cho mình một bản sắc riêng mà để đồng nhất bản sắc của mình với bản sắc của nam giới.
II. 2 Đến đây xuất hiện một câu hỏi: vì sao, ở thời kì này, hình tượng người phụ nữ lại bị nam tính hóa mạnh mẽ đến như thế?
          II.2.1 Để trả lời câu hỏi này, trước tiên, phải trở lại với sự xuất hiện vấn đề người phụ nữ cũng như phong trào nữ quyền của Việt Nam những năm đầu thế kỉ.
          Nghiên cứu về lịch sử vấn đề phụ nữ ở Trung Quốc, Tani Barlow nhận thấy: trong xã hội Trung Quốc truyền thống không có một từ chỉ khái niệm phụ nữ (woman) nói chung mà chỉ có các từ biểu thị những vai giới tính của một người phụ nữ trong những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của cô ta: là con gái khi ở gia đình – là vợ khi đi lấy chồng – là mẹ khi có con[13]. Không mấy khó khăn để tìm thấy ở đây những ảnh hưởng sâu đậm từ Nho giáo (những vai giới tính của người phụ nữ nói trên là hoàn toàn tương ứng với nguyên lí tam tòng). Tình hình cũng tương tự như thế ở Việt Nam, ít nhất từ thế kỉ thứ X và ngày càng trở nên đậm nét dưới ảnh hưởng kéo dài của Nho giáo trong lịch sử. Lẽ đương nhiên là có những khác biệt do môi trường văn hóa tạo ra. Những nghiên cứu dân tộc học và văn hóa từ L. Cadiere, Đào Duy Anh, đến Tạ Văn Tài...sau này[14] đều cho thấy người phụ nữ Việt Nam không hề bị đối xử một cách nghiệt ngã như người phụ nữ Trung Quốc. Trái lại, họ là một nhân tố tích cực trong lực lượng sản xuất và luôn giành được một vị trí quan trọng trong đời sống gia đình. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, vai trò của người phụ nữ cũng chỉ đóng khung trong khuôn khổ của gia đình và chừng mực nào đó là trong dòng tộc. Về căn bản, ở không gian xã hội, quốc gia người phụ nữ chưa bao giờ được xem là một đại diện hợp thức.
Nhưng một tình thế mới đã xuất hiện trong xã hội Việt Nam vào cuối thể kỉ XIX và đầu thế kỉ XX. Sự tiếp xúc với phương Tây đã, lần đầu tiên, giúp người Việt  thoát ra khỏi giới hạn khu vực mà Trung Quốc là trung tâm để biết về một trật tự thế giới trong phạm vi toàn cầu. Nhưng, cũng là lần đầu tiên, người Việt nhận thấy một cách sâu sắc và cay đắng về vị thế nhược tiểu của mình trên bản đồ thế giới. Những tự hào về một quốc gia có truyền thống thi thư, có lịch sử lâu đời... không khỏa lấp được sự thật về mặt bằng thấp kém, lạc hậu và vì thế hèn yếu của dân tộc. Nét tâm lí này là tiền để cho sự hình thành một diễn ngôn mới về dân tộc với định hướng hiện đại hóa bằng cách học tập những tri thức từ phương Tây. Trong sự so sánh với phương Tây, những trí thức Việt đầu thế kỉ nhận thấy một trong những nguyên nhân khiến cho dân tộc chậm tiến hóa là vì: khác với phụ nữ phương Tây, người phụ nữ Việt Nam bị đặt vào vị thế hoàn toàn thấp kém với người đàn ông, và hoàn toàn bị gạt ra khỏi những vấn đề của dân tộc. Muốn duy tân dân tộc thì phải mở mang dân trí và khái niệm người ‘quốc dân’ không chỉ dành cho người đàn ông mà còn có cả sự hiện diện của người phụ nữ. Dù đó là các chí sĩ, hay các trí thức trưởng thành từ nhà trường Pháp – Việt, hoặc các lãnh tụ cộng sản thì vẫn có một điểm chung: đề cao vai trò của người phụ nữ, dành cho người phụ nữ một sự quan tâm đặc biệt trong những dự án về dân tộc. Về vấn đề này, chúng tôi hoàn toàn chia sẻ với nhận định của D. Marr: “Một thế hệ trí thức mới của Việt Nam ra đời vào thập niên đầu của thế kỉ XX, quyết tâm phụng sự cho độc lập dân tộc và hiện đại hóa xã hội Việt Nam. Lúc đầu còn mơ hồ, sau này rõ nét hơn, một số người đã nhận thấy rằng mọi cải cách văn hóa đều đòi hỏi thay đổi trạng thái thấp kém của người phụ nữ, đồng thời công cuộc đấu tranh của dân tộc có nhiều cơ hội thành công hơn nếu có sự tham gia tích cực của người phụ nữ[15][TVT2] .
Như thế, tinh thần dân tộc và tham vọng hiện đại hóa đất nước chính là văn cảnh cho sự xuất hiện vấn đề người phụ nữ và phong trào nữ quyền đầu thế kỉ XX. Từ đây, người phụ nữ bắt đầu được xuất hiện trong những diễn ngôn về dân tộc tính. Vai trò của họ không còn đóng khung trong phạm vi của gia đình mà được nhìn nhận trong mối quan hệ mật thiết với xã hội, dân tộc. Từ những năm 1907, các tác giả của Đông Kinh Nghĩa Thục đã có những lời nhắn nhủ:
Trong trời đất âm dương nhất lý
Chớ bảo rằng nhi nữ vô tri/ (...)
Người giúp của kẻ giúp công
Làm cho rõ mặt nữ trung anh hào”[16].
Hơn hai mươi năm sau, Phụ nữ tân văn tiếp tục khẳng định:
“Tình thế phụ nữ ở trong nước ta ngày nay quyết không phải là như hồi trước, lấy khuê môn làm cửa ngục cho đàn bà, mà việc gánh vác non sông không phải là phần việc của con gái”.
Cũng chính từ nhận thức về vai trò của người phụ nữ với tiền đồ dân tộc như thế mà Phan Bội Châu đã viết những lời cổ vũ đầy nhiệt thành:
“Đua khôn khéo ở trong trường ưu liệt, ta quyết bay trên chạy trước, cho kịp món râu mày (...) Hễ những sự nghiệp gì, rất khó khăn, rất to lớn, món trai không làm nổi, chị em ta quyết chí làm nên”[17].
 Có thể thấy, ở đây, người phụ nữ (với vị thế mới và những quan niệm mới về nữ tính) và hiện đại hóa dân tộc là hai chủ đề gắn bó với nhau chặt chẽ, phản ánh và chuyển hóa lẫn nhau. Từ góc nhìn này, Loan không chỉ là biểu tượng cho một cô gái mới khao khát tự do mà còn là biểu tượng cho một dân tộc đang cố gắng thoát khỏi những ràng buộc của truyền thống để hướng tới một tương lai mới. Những phê phán về Tự Lực Văn Đoàn nói chung đều xuất phát từ tự sự chia cắt giả tạo giữa giải phóng phụ nữ và vấn đề dân tộc. Nhưng đặt vào bối cảnh văn hóa mà tác phẩm ra đời, như chúng ta đã thấy ở trên, giữa diễn ngôn giải phóng phụ nữ và diễn ngôn về dân tộc tính luôn có sự tương thông và đan bện không thể tách rời. Nói cách khác, một diễn ngôn mới về nữ tính đã được xây dựng trên cơ sở một diễn ngôn mới về dân tộc tính.
II.2.2 Tuy nhiên, được kiến tạo trong quan hệ với diễn ngôn dân tộc tính không đưa lại cho nữ tính một bản sắc riêng, không đảm bảo cho người phụ nữ một tồn tại độc lập. Trong mối quan hệ với dân tộc tính, người đàn ông vẫn là đại diện hợp thức và duy nhất. Theo tổng kết của Tamar Mayer:
Bất chấp những cách diễn đạt hoa mỹ về tính chất bình đẳng cho mọi người có tham gia vào dự đồ dân tộc (national project) thì dân tộc vẫn luôn là, giống như những thực thể nữ tính khác, một sở hữu của đàn ông – điều này là một thực tế rõ ràng, mang tính lịch sử và toàn cầu[TVT3] ”.
Và vì thế:
“vấn đề dân tộc là gì, cái ‘tôi’ của nó, gắn liền với cái mà người đàn ông là và cái mà người đàn bà được chỉ định là (assigned to be) [TVT nhấn mạnh]” [18][TVT4] .
 Nói cách khác, chỉ người đàn ông mới có quan hệ trực tiếp với dân tộc, chính anh ta là người kiến tạo ra dự đồ của dân tộc (national project). Vai trò của người phụ nữ với dự đồ dân tộc là do người đàn ông chỉ định. Một quan niệm như thế đã được Huỳnh Thúc Kháng khẳng định một cách công khai khi trả lời báo Phụ Nữ Tân Văn về vấn đề phụ nữ:
“Ở trên thế giới xưa nay, Đông Tây, dầu cho dân tộc mà ngày nay cho là văn minh bậc nhất, cái bước tiến lên con đường tiến hóa, sao cũng đàn ông đi trước, mà đàn bà mới tiếp theo [...], thử xem toàn thế giới có dân tộc nào đàn ông thì trình độ đê hèn, mà đàn bà tiến lên cao được bao giờ?[19]”.
Với trật tự “đàn ông đi trước, mà đàn bà mới tiếp theo” mà Huỳnh Thúc Kháng đã ấn định như trên thì nam tính hóa nữ tính là phương thức duy nhất để người phụ nữ hiện đại khẳng định bản sắc và vị thế của mình.
Nắm được nguyên lí này sẽ giúp ta giải thích vì sao trong tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn nói chung và Nhất Linh nói riêng không gian của dân tộc, quốc gia chỉ được miêu tả trong mối quan hệ trực tiếp với người đàn ông. Chỉ anh ta mới có vị thế hợp thức để nói lên những hoài vọng, để gắn cuộc đời của mình với không gian dân tộc. Vậy nên, trong Tự Lực Văn Đoàn những nhân vật nam giới như Ngọc trong Hồn bướm mơ tiên, Lộc trong Nửa chừng xuân ...(những người mà phần lớn những sự kiện liên quan đến họ dường như chỉ là ái tình) vẫn có những tuyên bố, những lập ngôn nồng nhiệt, tha thiết về nhân loại, về xã hội. Những lập ngôn này, trước đây, vẫn thường được xem là vu vơ, là thiếu sức thuyết phục vì không gắn với logic phát triển tính cách, kì thực lại nằm trong khung khổ về giới tính đã định trước cho nhân vật. Quả thật, trong Đoạn tuyệt, những suy tư cảm động, tha thiết và sâu sắc nữa về dân, nước được dành chỉ cho Dũng[20]. So với những nhân vật nữ của Khái Hưng, Loan của Nhất Linh đã đi xa hơn rất nhiều. Tình yêu mà Loan dành cho Dũng không phải để hướng đến những bổn phận gia đình truyền thống (như Mai dành cho Lộc trong Nửa chừng xuân) mà để thoát khỏi ràng buộc của những vai giới tính truyền thống, để hướng đến sống một cuộc đời tự do mạnh mẽ. Nhưng như ta đã thấy, Nhất Linh không miêu tả trực tiếp Loan với những suy tư, cảm xúc về dân tộc. Mối quan hệ của cô với không gian dân tộc chỉ được thực hiện duy nhất qua tình yêu mà cô giành cho Dũng, qua sự đồng nhất của cô với Dũng.
Tóm lại: hiện đại hóa dân tộc là diễn ngôn chủ đạo của thời đại. Dấu hiệu của quá trình hiện đại hóa ấy được nhận thấy từ chính sự đổi thay trong vị thế của người phụ nữ: thoát khỏi những vai trò gia đình truyền thống để có được vai trò với sự phát triển của dân tộc. Nhưng hiện đại hóa dân tộc là do người đàn ông lĩnh xướng và dẫn dắt. Chỉ bằng cách tiến đến và đồng nhất với người đàn ông, người đàn bà mới có được giá trị đích thực cho nữ tính của mình. Điều này hoàn toàn tương ứng với sự vận động của cốt truyện trong Đoạn tuyệt: Loan từ bỏ vai trò người đàn bà của Thân (người đàn ông trong khuôn thước gia đình chật hẹp) để trở thành người đàn bà của Dũng (người đàn ông trong không gian xa rộng, gắn với hoài bão về nhân dân và đất nước). Trong một tương quan như thế với diễn ngôn về hiện đại hóa dân tộc, nam tính hóa nữ tính là một tất yếu!
III. Nam tính hóa nữ tính – sự khủng hoảng của nam tính Việt trong bối cảnh thuộc địa
Hiện tượng nam tính hóa nữ tính trong Đoạn tuyệt còn có thể có được cắt nghĩa trong mối quan hệ với nam tính Việt trong bối cảnh thuộc địa.
Cũng theo tổng kết của T. Mayer, tồn tại một tương quan phổ biến cho tương quan nam tính – dân tộc và nữ tính như sau:
“dân tộc hầu như luôn được nữ tính hóa và được mô tả như cần sự bảo vệ; người phụ nữ được hình dung như là sự tái sinh văn hóa và sinh học của dân tộc và mang những thuộc tính: thuần khiết và thùy mị, và người đàn ông sẽ giữ vai trò bảo vệ hình ảnh của dân tộc, bảo vệ biên giới của dân tộc, bảo vệ sự thuần khiết và thùy mị của người phụ nữ, bảo vệ cái mã đạo lí (moral code). Như thế người phụ nữ đại diện cho sự hoài thai (womb) sinh học và xã hội của dân tộc và người đàn ông có tư cách như là người bảo vệ (protector)”[21][TVT5] .
Mô hình trên, đương nhiên là không thể áp dụng nguyên xi vào mọi nền văn hóa, trong mọi thời kì nhưng vẫn có ý nghĩa quan trọng với tư cách là một phạm trù phổ quát để qua đó nhận diện về những biến thể.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX thì vai trò người bảo vệ (protector) của người đàn ông bị thách thức nghiêm trọng. Từ phong trào kháng Pháp ở Lục tỉnh, đến phong trào Cần Vương, Đông du và gần nhất với thời điểm ra đời của Đoạn tuyệt là khởi nghĩa Yên bái; từ hình mẫu của người nam nhi truyền thống lấy cái chết đền nợ nước của Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Hoàng Diệu đến mẫu người anh hùng thời loạn của Phan Bội Châu, người cách mạng theo ý hệ tư sản của Nguyễn Thái Học...chung cuộc vẫn là những thất bại bi tráng. Lời tổng kết cay đắng của Phan Bội Châu “Than ôi! Lịch sử của tôi mà làm gì! Chỉ là một bộ lịch sử hoàn toàn thất bại”[22], lời tuyên bố của Nguyễn Thái Học: “không thành công thì cũng thành nhân” phần nào cho thấy mặc cảm về khả năng hành động, về vai trò người bảo vệ của người đàn ông trước số phận của dân tộc. Có thể nói đến ở đây một sự khủng hoảng sâu sắc của nam tính truyền thống trước những thách đố của lịch sử của số phận dân tộc.
Trong một tình thế như thế, nam tính hóa nữ tính người phụ nữ cho phép người đàn ông xác lập bản sắc nam tính của mình. Không nên quên rằng hầu hết những bản sắc nữ tính mởi mẻ trên báo chí và tiểu thuyết thời kì này phần lớn đều được tạo lập bởi những nhà cách mạng, những nhà báo, nhà văn nam giới: từ Phan Bội Châu đến Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh qua Phan Khôi, Nhất Linh[23]. Chính thông qua việc nam tính hóa người phụ nữ, người đàn ông phóng chiếu vào đó hình ảnh, những kì vọng của chính mình. Trong Đoạn tuyệt, Loan tựa như tấm gương phản chiếu những ý nguyện, hoài bão của Dũng. Sự chiến thắng của Loan trước ràng buộc và lệ tục thực chất cũng chính là chiến thắng của những khát vọng đổi thay mà Dũng là hiện thân đẹp đẽ và tiêu biểu nhất. Chính nhờ thông qua Loan mà những phẩm chất của Dũng trở nên rõ nét và trọn vẹn hơn. Ta hiểu vì sao, Nhất Linh không miêu tả tình yêu của Dũng dành cho Loan từ  những rung động về vẻ đẹp hình thể hay sự tinh tế của thế giới nội tâm. Dũng yêu Loan vì anh tìm thấy ở cô hình ảnh và hoài bão của chính mình. Sự nghiệp mà Dũng theo đuổi là khá mơ hồ trong tác phẩm nhưng chính vì sự thắng lợi của Loan mà nó có được một hình hài rõ nét hơn. Chẳng những thế, sự vận động của Loan để tiến đền đồng nhất với Dũng đã đưa Dũng lên vị thế của một nhân vật lí tưởng, đầy hấp dẫn. Qua tình yêu của Loan, Dũng (biểu tượng của nam tính Việt) tìm thấy vị thế của người dẫn đường, là hình mẫu lí tưởng để người phụ nữ hướng tới. Bằng cách này, người đàn ông đã khẳng định vai trò dẫn dắt, hướng đạo của mình trong sứ mệnh giải phóng phụ nữ cũng như hiện đại hóa dân tộc. Đấy có lẽ chính là một tín niệm và cũng là một thông điệp mà Nhất Linh – nhà văn, nhà hoạt động xã hội đã để lại trong tác phẩm của mình.
Tuy nhiên theo một chiều hướng khác thì việc kiến tạo nam tính thông qua hình tượng về người phụ nữ còn có thể được lí giải từ nguyên nhân: sự mặc cảm của nam tính Việt trong tương quan với chủ thể thực dân. Diễn ngôn về hiện đại hóa dân tộc, như chúng tôi đã phân tích ở trên, mặc nhiên dành cho phương Tây vai trò của kẻ mạnh. Trong tương quan giữa chủ thể thực dân và thuộc địa thì: “nhìn chung, địa vị chủ thể được  định ra cho các chủ thể thực dân là đàn ông[24]” và điều này khiến nam tính của các dân tộc thuộc địa bị suy giảm (emasculated), có xu hướng bị nữ tính hóa (feminized). Theo K. Louie: nhiều nghiên cứu khoa học củng cố cho nhận định của Edward Said rằng:
 “những diễn ngôn về phương Đông đã giảm thiểu nam tính của nó tới mức phương Đông ‘là bị thấu suốt (penetrated[25]), câm lặng, và bị sở hữu’ (Said 1978, 207). Mặc dù Đông phương với Said là qui chiếu đến Trung Á thì chân dung của người đàn ông Nhật Bản và Trung Quốc dường như củng cố cho sự khẳng định của Said rằng: dưới cái nhìn phương Tây đàn ông châu Á bị nữ tính hóa[26][TVT6] .
 Từ góc độ này này, hiện tượng nam tính hóa nữ tính, hiện tượng phóng chiếu bản sắc nam tính vào trong những kiến tạo về nữ tính (như chúng ta đã thấy ở mối quan hệ giữa Dũng và Loan nói trên) lại có thể xem là một biểu hiện của sự nữ tính hóa nam tính (feminised masculine) trong bối cảnh thuộc địa. Nam tính – đại diện hợp thức của dân tộc - không đủ tự tin để hiện diện một cách trực tiếp mà phải ẩn mình sau những biến đổi của nữ tính.
IV. Kết luận 
 Từ những phân tích trên có thể rút ra hai kết luận:
Thứ nhất,  với Đoạn tuyệt của Nhất Linh đã xuất hiện một “phiên bản” mới về người phụ nữ. Lần đầu tiên, trong lịch sử văn học người phụ nữ thoát khỏi phạm vi gia đình để xuất hiện trong không gian xã hội, dân tộc. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là người phụ nữ đã có một chủ thể tính (subjectivity) độc lập. Ở Loan người ta không thấy những trải nghiệm, những kinh nghiệm, càng không thấy cái nhìn riêng của người phụ nữ về thế giới. Hình tượng người phụ nữ trong Đoạn tuyệt chỉ là một kiến tạo từ cái nhìn của người đàn ông. Người phụ nữ trở thành một công cụ để nhà văn nam giới thể hiện cái nhìn và những ý tưởng về xã hội của họ. Điều này không mới. Một chiến lược sử dụng hình tượng người phụ nữ để biểu đạt kinh nghiệm, cái nhìn của đàn ông về thế giới như thế vốn đã trở thành thông lệ trong sáng tác của các nhà văn nam giới trong truyền thống: nàng Kiều của Nguyễn Du, nàng cung nữ của Nguyễn Gia Thiều, nàng chinh phụ của Phan Huy Ích (?) ... đều là như thế. Trong những trường hợp này, người phụ nữ hiện diện như một phạm trù “rỗng” nghĩa và luôn được tái tạo lại tùy theo cách khai thác của nhà văn nam giới. Nói cách khác, người phụ nữ chỉ thuần túy là cái biểu đạt, nó không có một bản sắc riêng. Đây là một vấn đề  lí thuyết rất thú vị mà chúng tôi hi vọng sẽ có dịp đề cập đến một cách chi tiết hơn trong một tiểu luận độc lập khác.
Thứ hai, ẩn chứa trong sự kiện nam tính hóa nữ tính của Đoạn tuyệt là rất nhiều tương quan quyền lực: nam giới và nữ giới; bản sắc dân tộc; thực dân và thuộc địa... Chính sự giao cắt (intersection) của các tương quan quyền lực trên đã khiến cho cuốn tiểu thuyết luận đề mất đi sự trong sáng và mạch lạc để nhường chỗ cho tính chất mơ hồ, đa âm của các lớp nghĩa được biểu đạt. Như thế, về mặt lí thuyết, có lẽ phải thừa nhận rằng: tính đa nghĩa của tác phẩm dường như được quyết định bởi sự tương tác của các diễn ngôn, của các quan hệ quyền lực hơn là phụ thuộc vào những tiểu loại mà chúng được dán nhãn, vào những kiểu tính cách nhân vật được xây dựng trong tác phẩm?

Key words: Văn học Việt nam, diễn ngôn, nam tính, nữ tính.



[1] Trương Tửu.2007, “Đoạn tuyệt của Nhất Linh” trong sách “Trương Tửu – Tuyển tập nghiên cứu, phê bình” do Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh (sưu tầm và biên soạn), Hà Nội: Nxb Lao Động – Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây, tr.109
[2] Nguyễn Công Hoan, “Từ Đoạn tuyệt đến Cô giáo Minh”, Tiểu thuyết thứ bảy, số 92 (29-2-1936), dẫn lại theo Thanh Lãng.1995, Mười ba năm tranh luận văn học (1932-1945), NXB Văn học – Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, t1, tr.73-5
[3] Dương Quảng Hàm. 1951, “Tự Lực Văn Đoàn”, trong sách Việt Nam văn học sử yếu, Hà Nội: Bộ Quốc Gia Giáo Dục (in lần thứ 3), tr.438.
[4] Huỳnh Lý – Hoàng Dung – Nguyễn Hoành Khung – Nguyễn Đăng Mạnh – Nguyễn Trác. 1978, Lịch sử văn học Việt Nam, tập 5, phần 1, Hà Nội: Nxb Giáo dục (in lần thứ 5), tr.69
[5] Phan Cự Đệ. 1974, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Hà Nội: Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, t1, tr.78
[6]Nhất Linh. 1999, “Đoạn tuyệt”, trong Văn chương Tự Lực Văn Đoàn, tập 1 do Phan Trọng Thưởng – Nguyễn Cừ.1999 (giới thiệu và tuyển chọn), Hà Nội: Nxb Giáo dục, tr.23
[7] Như trên, 125-126
[8] Như trên, 134
[9] Brownell, Susan và Wasserstrom, N. Jeffrey (chủ biên). 2002, “Introduction: Theorizing Femininities and Masculinities” [Dẫn nhập: Lí thuyết hóa về những nữ tính và những nam tính] trong sách Chinese Femininities/Chinese Masculinities [Những nữ tính/những nam tính Trung Quốc], University of California Press, Ltd, tr. 32
[10] Bùi Xuân Bào, “Nhất Linh hay khuynh hướng lãng mạn phản kháng”, dẫn theo Mai Hương (tuyển chọn và biên soạn).2000, Nhất Linh – cây bút trụ cột của Tự Lực Văn Đoàn, Hà Nội: Nxb Văn hóa thông tin, tr.120
[11] Nguyễn Thị Kiêm (1914-?): nữ nhà báo, nhà thơ, nhà hoạt động xã hội có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần Việt Nam những năm 30. Là cây bút xuất hiện ngay từ buổi đầu của Phụ Nữ Tân Văn, với bút danh Nguyễn Thị Manh Manh, những bài báo, diễn thuyết và thơ của Nguyễn Thị Kiêm đã có những đóng góp quan trọng đến  phong trào nữ quyền và phong trào thơ Mới.
[12] Nguyễn Thị Kiêm, “Cô Nguyễn Thị Kiêm nói về vấn đề nữ lưu và văn học”, Phụ Nữ Tân Văn, số 131 (26-5-1932), tr.32 dẫn lại theo theo Thanh Lãng.1995, Mười ba năm tranh luận văn học (1932-1945), NXB Văn học – Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, t2, tr.185, 187
[13]Brownell, Susan và Wasserstrom, N. Jeffrey. 2002, 28
[14] Những tài liệu liên quan đến vấn đề này là rất phong phú. Một vài tư liệu dẫn ra ở đây đơn thuần chỉ có tính chất đại diện: Cadiere, L.1997, “Gia đình và tôn giáo Việt Nam” trong sách Về  văn hóa và tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, Hà Nội: NXB Văn hóa thông tin, tr 77-92; Đào Duy Anh.1951, “Địa vị đàn bà” trong sách Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Bốn phương, tr 109-112; Tạ Văn Tài.1984, “Women and the law in traditional Vietnam” [Người phụ nữ và luật pháp trong xã hội Việt nam truyền thống], The Vietnam Forum, số 3 (Winter-Spring), USA: Yale Southeast Asia Studies, tr. 117-131
[15] D.Marr.1984, “The Question of Women”, Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945 [Truyền thống Việt Nam trong thử thách, 1920-1945], University of California Press, tr. 199-200
[16] “Quốc văn tập độc”, trong sách Văn thơ Đông Kinh Nghĩa Thục do Đỗ Văn Hỷ, Vũ Văn Sạch, Đinh Xuân Lâm, Philippe Papin, Phan Quý Bích.1997 (dịch), Hà Nội: Cục lưu trữ, Viện viễn đông bác cổ, Nxb Văn hóa, tr.119
[17] Phan Bội Châu. 1929, “Ý kiến của ông Phan Bội Châu đối với vấn đề phụ nữ”, Phụ nữ tân văn, số 10 (4.7.1929), tr.10, dẫn theo Thanh Lãng, Mười ba năm tranh luận văn học (1932-1945), NXB Văn học – Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, t1, tr.85
[18] Mayer, Tamar. 2002, “Gender Ironies of Nationalism” [Những phi lý về giới tính của chủ nghĩa dân tộc],  Gender Ironies of Nationalism – Sexing the nation [Những phi lý về giới tính của chủ nghĩa dân tộc – xác định giới của dân tộc], tái bản lần thứ hai, Taylor & Francis e-Library, tr.1, 18
[19] Huỳnh Thúc Kháng.1929, “Ý kiến của ông Huỳnh Thúc Kháng đối với vấn đề phụ nữ”, Phụ Nữ Tân Văn số 9 (27.6.1929), tr. 10 dẫn theo Thanh Lãng, Mười ba năm tranh luận văn học (1932-1945), NXB Văn học – Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, t2, tr.79
[20] Nhất Linh.1999, “Đoạn tuyệt”, 66-67
[21] Mayer, Tamar. 2002, 10. Một mô hình như thế (với những điều chỉnh nhất định) cũng có thể được nhận thấy trong bài viết “Women, Westernization and the Origins of Modern Vietnamese Theatre” [Người phụ nữ, phương tây hóa và những nguồn gốc của kịch Việt Nam hiện đại], Journal of Southeast Asian Studies, 37 (2), pp 205–224 June 2006 của W. Wilcox.
[22] Phan Bội Châu.2000, “Tựa Phan Bội Châu niên biểu”, trong sách Phan Bội Châu toàn tập, t6, Hà Nội: Nxb Thuận Hóa, Trung Tâm Văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây, tr.106
[23] Một cách cụ thể về vai trò của các nhà cách mạng, tư tưởng và nhà văn nam giới trong phong trào nữ quyền, xin xem Đặng Thị Vân Chi.2008, Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước năm 1945, Nxb Khoa học xã hội.
[24] Mills, Sara.2004, “Feminist Theory and Discourse Theory” [Lí thuyết nữ quyền và lí thuyết diễn ngôn] trong sách Discourse [Diễn ngôn], New York: Taylor & Francis e-Library, tr.90
[25] Từ “penetrate” bên cạnh những nghĩa: “thâm nhập”, “lan khắp”, “hiểu thấu” còn một nghĩa chỉ hành vi đưa sinh thực khí người nam vào trong âm đạo của người nữ. Cách diễn đạt này tự nó đã ngầm biểu đạt sắc thái nữ tính hóa của phương Đông.
[26] Louie, Kam.2005, “Chinese, Japanese and Global Masculine Identities” [Nam tính Trung quốc, Nhật Bản và những bản sắc nam tính toàn cầu], trong sách Asian Masculinities [Những nam tính châu Á], biên soạn bởi Kam Louie và Morris Low, Taylor & Francis e-Library, tr.3

Đã in: Tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 9, 2011, tr86-97. (Đã có thay đổi về hình thức trình bày)







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét