Thứ Sáu, 18 tháng 8, 2017

DIỄN NGÔN VỀ HÀ NỘI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX


                                                                       
1. Tên gọi Hà Nội, sớm nhất là từ thời Minh Mạng (1831). Nhưng Hà Nội trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX lại tồn tại với tư cách là nhượng địa của Pháp theo kí kết của vua Đồng Khánh với người Pháp (1888) và muộn hơn một chút, năm 1902, với tư cách là thủ đô của toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp (French Indochina) do Toàn quyền Đông Dương phê duyệt. Ở thời điểm ấy, Hà Nội trong vị thế mới này là đô thị hiện đại đối lập với Hà Nội (thời Minh Mạng), Thăng Long (thời Gia Long), Bắc Thành (thời Quang Trung) hay trước đó Đông Kinh (thời Lê Lợi), Đông Đô (thời Hồ Quý Lý), Thăng Long (thời Lý)[1]những tên gọi mang trong mình những thăng trầm lịch sử nhưng, dù khác biệt đến đâu, vẫn thuộc về loại hình đô thị phương Đông truyền thống. Có một lưu ý khá thú vị: trước thời Pháp thuộc, bất chấp việc Hà Nội đã trở thành tên gọi chính thức thì trong văn học nó vẫn được nhắc đến bằng cái tên Thăng Long[2], hoặc một danh xưng khác (ít phổ biến hơn): Tràng An. Vậy nên, vào thời điểm Hà Nội trở thành một địa danh trong văn học mới (thay thế cho Thăng Long trong văn học truyền thống) người ta có thể nói đến ở đó một khúc ngoặt thời đại mang đậm dấu ấn của một xã hội thuộc địa mà đặc điểm nổi bật là phương Tây hoá, hiện đại hoá.

INTERNET VÀ VĂN HỌC ĐẠI CHÚNG – TỪ GIẢI TRUNG TÂM ĐẾN GIẢI NHỊ PHÂN VIẾT/ NÓI (TRƯỜNG HỢP CÓ MỘT PHỐ VỪA ĐI QUA PHỐ CỦA ĐINH VŨ HOÀNG NGUYÊN)


INTERNET VÀ VĂN HỌC ĐẠI CHÚNG – TỪ
GIẢI TRUNG TÂM ĐẾN GIẢI NHỊ PHÂN VIẾT/ NÓI
(TRƯỜNG HỢP CÓ MỘT PHỐ VỪA ĐI QUA PHỐ
CỦA ĐINH VŨ HOÀNG NGUYÊN)
                                                                TRẦN VĂN TOÀN(*)
1. Xuất bản năm 2013, Có một phố vừa đi qua phố (tập hợp những entry trên blog của Đinh Vũ Hoàng Nguyên) nhanh chóng trở thành một hiện tượng của đời sống văn học. Trên bìa bốn của cuốn sách có lời giới thiệu đáng chú ý của Đỗ Thu Hà:
“Đinh Vũ Hoàng Nguyên mất rạng sáng 23 tháng Ba năm 2012, đúng sinh nhật lần thứ 38. Chàng nhà thơ này chưa có thơ xuất bản, nhà văn này không có truyện ngắn đăng báo, hoạ sĩ này chưa có triển lãm cá nhân.
Nhưng tất cả những ai từng biết Nguyên qua blog Lão Thầy Bói Già, qua Facebook với nick Đinh Vũ Hoàng Nguyên đều đã kịp chiêm ngưỡng những bức hoạ tràn trề màu xanh hi vọng của Nguyên, đã kịp say sưa theo dõi những truyện ngắn Nguyên post lên mạng làm nhiều kỳ, lôi cuốn, hồi hộp, cười đau cả ruột mà nước mắt ứa ra lặng lẽ”(1).
Bài giới thiệu mở đầu cuốn sách của nhà văn Lê Minh Hà cũng dành cho cây bút này rất nhiều thiện cảm từ góc độ người đọc và người cầm bút:
“Đinh Vũ Hoàng Nguyên chỉ quăng một stutus thôi là kéo giật được bao nhiều người nhào vào đọc, rồi bình. Cứ nghĩ đến chuyện mình mang hết góc nọ góc kia của cõi lòng của miền tâm cảm bày ra trên mạng mà thiên hạ coi như nước ao bèo không thèm ném cho hòn sỏi, đọc thống kê lượng người vào thăm nhà Nguyên, khéo buồn khéo tủi khéo ghen.
Quả trên mạng chưa thấy có ai có được những status hài hước thế. Đây không hẳn là cái duyên, giỏi nhìn ngó và biết kể, mà là hẳn một kiểu tư duy, không thể nào bắt chước được.
[…] Một chuyện tình là một truyện ngắn hoàn hảo trong nghĩa này. Phảng phất như Nam Cao, trong cái dịu dàng tít tắp đằng sau câu chữ. […] Ở những entry khác, mà có lúc Đinh Vũ Hoàng Nguyên cũng chú trước là truyện ngắn, tưởng chừng như tác giả Số đỏ có truyền nhân”(2).
Những bình luận trên có thể gây tranh luận nhưng thiện cảm của người đọc dành cho Đinh Vũ Hoàng Nguyên và tác phẩm của anh là có thật. Tra cứu trên Google, những nhận xét phản hồi của người đọc về Có một phố vừa đi qua phố dao động từ 3 sao đến 5 sao. Rất nhanh, trên Internet đã có bản PDF và Ebook cho tác phẩm này (một dấu hiệu cho sự quan tâm của độc giả). Quan trọng hơn cả, cùng với Cửa hiệu giặt là của Đỗ Bích Thuý (một nữ nhà văn chuyên nghiệp đã được cộng đồng sáng tác thừa nhận), Có một phố vừa đi qua phố của Đinh Vũ Hoàng Nguyên đã được trao giải thưởng Văn học nghệ thuật Thủ đô năm 2014 của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, một trong 10 thành viên chấm giải, nhận xét: “Cuốn sách cho thấy một gương mặt tương đối đặc biệt trong giới viết lách hiện nay: một người không định làm văn chương, nhưng đã đạt đến giá trị văn chương”(3).
Tóm lại, với hình thức cuốn sách, nhà xuất bản, giải thưởng của một tổ chức văn học chính thống, những bình luận của giới sáng tác và phê bình đã khiến những đăng tải trên internet của một người viết (dưới hình thức blog) đã gia nhập vào không gian văn học chính thống của xã hội, được bình luận và đánh giá như một hiện tượng văn học. Bài viết này của chúng tôi sẽ tập trung lí giải nguyên nhân khiến cho Có một phố vừa đi qua phố có được độc giả của mình cũng như vị trí của tác phẩm này đồng thời đưa ra những thảo luận xung quanh những đặc điểm của văn học đại chúng nói chung trong đời sống văn học đương đại với sự hiện diện của Internet.

Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2015

DẪN NHẬP LÍ THUYẾT DIỄN NGÔN CỦA M.FOUCAULT VÀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC

Có một thực tế là: dù có công trình nghiên cứu về văn học Pháp đương đại được viết vào những năm 1960 thì Foucault vẫn chưa bao giờ là một nhà nghiên cứu văn học theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Tuy nhiên, và điều này còn thú vị hơn, những ảnh hưởng của Foucault đến nghiên cứu văn học là rất sâu đậm: cả trên phương diện những đề tài cụ thể (tính dục, cái tôi, vấn đề nữ quyền...) cũng như trên phương diện lí thuyết (vấn đề lịch sử văn học, vấn đề tác giả, vai trò của phê bình văn học, giới tính trong sáng tác và tiếp nhận văn học, tính văn học (literariness). Tất cả những ảnh hưởng nhiều mặt, đa dạng này của Foucault với nghiên cứu văn học, về cơ bản, đều có thể được cắt nghĩa từ việc nhìn nhận văn học như một diễn ngôn. Và đấy sẽ là mục tiêu mà tiểu luận của chúng tôi hướng tới giới thiệu và thảo luận.

Thứ Tư, 1 tháng 7, 2015

PHƯƠNG TÂY VÀ SỰ HÌNH THÀNH DIỄN NGÔN VỀ BẢN SẮC VIỆT NAM (trường hợp Phan Bội Châu từ 1905 – 1908)

1. Diễn ngôn thực dân và diễn ngôn bản sắc dân tộc
1.1 Thực dân hiểu theo nghĩa là sự xâm chiếm và kiểm soát đất đai và tài sản của những cộng đồng và quốc gia khác là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên trong lịch sử nhân loại. Từ đây xuất hiện câu hỏi: đâu là sự khác nhau giữa chủ nghĩa thực dân của phương Tây với những hình thức thực dân trước đó?
         Tư duy Mac-xit đặt trong tâm nhận thức về thực dân trên phương diện kinh tế. Theo đó, sự khác biệt giữa phương Tây và các nước thuộc địa chủ yếu là khác biệt giữa những hình thái sản xuất tư bản chủ nghĩa với những xã hội có những hình thái sản xuất khác. Từ những gợi ý lí thuyết về quyền lực/ tri thức (diễn ngôn) của Foucault, E. Said đề xuất một hướng tiếp cận mới để nhận thức về quyền lực thực dân. Trong những phân tích của học giả này, quyền lực của thực dân được hiểu mềm dẻo hơn (nhưng cũng để lại những ám ảnh lâu dài hơn): không phải là sức mạnh đàn áp, thống trị mà là sức mạnh được thực hiện nhờ vào việc kiến tạo một diễn ngôn (tri thức) về phương Đông. Said cho rằng những miêu tả (representations) về phương Đông trong các văn bản phương tây đã kiến tạo một sự lưỡng phân giữa châu Âu và Kẻ Khác (Others) trong đó châu Âu giữ vai trò trung tâm với những ưu thế vượt trội. Theo đó: phương Tây là lí trí, văn minh, năng động, nam tính đối lập với một phương Đông: phi lí trí, lạc hậu, tính tại, nữ tính...

Thứ Năm, 5 tháng 2, 2015

MISS SÀI GÒN VÀ DIỄN NGÔN ĐÔNG Á


Thursday, March 25, 2010 4:18:50 PM

1. Chắc không phải là ngẫu nhiên khi Lee Dong Soon lại chọn tên bài thơ Miss Sài Gòn làm nhan đề chung cho cả tập thơ – một nhan đề mà tự nó đã cho thấy một sự đan trộn văn hóa, đan trộn không – thời gian. “Miss Sài Gòn” là cách gọi của một người lính Hàn Quốc dành cho người phụ nữ Việt Nam mà anh ta đã gắn bó trong thời gian sống trong quân ngũ. Người đàn ông Hàn Quốc trong bài thơ thì đã bỏ đi và chưa biết đến ngày nào quay lại nhưng tác giả của tập thơ – một đồng bào của người lính Hàn Quốc năm xưa - thì đã đến Việt Nam. Với cá nhân ông thì đây là lần đầu tiên. Nhưng với tư cách của một người Hàn Quốc thì đó là một sự trở lại.

NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM- NHỮNG GIỚI HẠN VÀ SỨ MỆNH (suy nghĩ từ những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp)

Nhà văn - anh ta là ai? Anh ta và những tác phẩm của mình đảm nhận những sứ mệnh nào? đâu là những giới hạn? Đấy là những câu hỏi mà người cầm bút không thể né tránh. Tuy nhiên, không chỉ có người cầm bút tham gia vào câu trả lời này. Có những câu trả lời được đề xuất từ phía đại chúng, lại có những câu trả lời đến từ phía những nhà đạo đức, những nhà chính trị. Có những câu trả lời đến từ những chuẩn mực truyền thống, lại có những câu trả lời đến từ những áp lực của hiện tại và tương lai... Tất cả những câu trả lời này, trong đích hướng của chúng, đều có tham vọng thay nhà văn đưa ra câu trả lời cho chính anh ta. Chính vì thế, nhà văn, để đưa ra câu trả lời của mình, dù muốn hay không, cũng phải tiến hành một sự đính chính, khước từ, đối thoại với những câu trả lời dội đến anh ta từ nhiều hướng. Trên thực tế thì đây là điều bất khả đối với phần lớn những người cầm bút ở một thời đại cụ thể. Họ, hoặc là thoả mãn với những câu trả lời có sẵn, hoặc bị “méo”, bị lạc giọng trong tiếng ồn. Điều này giải thích vì sao chỉ ở những nhà văn hàng đầu những câu hỏi trên mới trở thành sự cật vấn không khoan nhượng, trở thành một nội dung, thậm chí là nội dung quan trọng nhất  trong các tác phẩm của họ. Bằng cách trả lời những câu hỏi này họ để lại trong tác phẩm chân dung tinh thần của mình, cái nhìn phản tỉnh về chính mình. Một cách tự nhiên, đây sẽ là một tiêu chí để những người làm văn học sử nhận diện về đặc điểm của một thời kỳ văn học nhất định.

ĐỒNG ĐỨC BỐN - THƠ VÀ NHỮNG NẺO KIẾM TÌM

1. 1.1. Nếu thơ là tiếng nói thân phận thì thơ Đồng Đức Bốn, trước tiên, là phát ngôn cho thân phận của một kẻ tự thấy mình:
Đời tôi chỉ những xót xa đi tìm
(Đời Tôi)
Câu thơ trên, cố nhiên ứng với chân dung thơ Đồng Đức Bốn. Nhưng chân dung ấy hoàn toàn không cá biệt. Cơ bản hơn, nó có ý nghĩa như một đại diện.
Thực vậy, thế hệ  những nhà thơ trước Đồng Đức Bốn không bị vướng mắc vào sự tìm kiếm những giá trị và tín niệm. Tất cả đều đã hoàn tất . Nhà thơ nối mình  với cộng đồng bằng những tín niệm thiêng liêng và phổ biến. Câu thơ của họ tự thân đã lấp lánh ánh sáng của mặt trời chân lý.