1. 1.1. Nếu thơ là tiếng nói thân phận
thì thơ Đồng Đức Bốn, trước tiên, là phát ngôn cho thân phận của một kẻ tự thấy
mình:
Đời tôi chỉ những
xót xa đi tìm
(Đời
Tôi)
Câu thơ trên, cố nhiên ứng với chân dung
thơ Đồng Đức Bốn. Nhưng chân dung ấy hoàn toàn không cá biệt. Cơ bản hơn, nó có
ý nghĩa như một đại diện.
Thực vậy, thế hệ những nhà thơ trước Đồng Đức Bốn không bị
vướng mắc vào sự tìm kiếm những giá trị và tín niệm. Tất cả đều đã hoàn tất .
Nhà thơ nối mình với cộng đồng bằng
những tín niệm thiêng liêng và phổ biến. Câu thơ của họ tự thân đã lấp lánh ánh
sáng của mặt trời chân lý.
Thế hệ Đồng Đức Bốn không có được sự ân
sủng ấy. Tất cả đều phải đi tìm, hơn thế xót xa đi tìm. Không hiếm khi, kết quả cho những kiếm tìm ấy là sự tẽn
tò:
Tẽn tò con sáo
sang sông
Bờ bên này tưởng
cũng không có gì
Tẽn tò con sáo
bay đi
Lại bờ bên ấy có
gì cũng không
(Con
sáo sang sông)
Trong tiếng Việt, tẽn là cụt hứng,
là ấm ức. Tẽn tò hơn thế còn là ngẩn ngơ (ngẩn tò
te), đầy lầm lạc. Phải đối diện với trạng thái tẽn tò thật chẳng có gì thú
vị. Vậy nên, để có được cái
khoảng khắc một giây cầm được mặt trời, với Đồng Đức Bốn, phải đi qua
bao nhiêu những tẽn tò, lặn lội:
Chín xu đổi lấy
một hào
Đi mua cái nắng lại
vào cái mưa
Đường bùn tôi lội
giữa trưa
Đắng cay thì ngậm
xót chua thì cầm
(Chín
xu đổi lấy một hào)
1.2. Trong tất cả những cuộc đi tìm ấy,
trước nhất và cũng hệ lụy nhất là tìm mình. Chùm thơ Đời Tôi của Đồng
Đức Bốn theo thời gian cứ đầy thêm mãi. Cho đến tập thơ gần đây nhất của anh. Chuông
chùa kêu trong mưa, cuộc tìm mình ấy
dường như vẫn là một hành trình chưa có điểm dừng:
Thương mình lặn
lội đường xa
Vào rừng tìm mãi
một hoa cải ngồng
Thế rồi phải quay
ra không
Tìm mình ở phía
cánh đồng đang mưa
(Thương
mình lặn lội đường xa)
Dẫu thế, theo tôi, trong tập thơ này,
hành trình tìm mình của Đồng Đức Bốn đã có được một sự lắng kết đáng kể khi anh
tự định vị mình:
Tôi là hạt bụi xa
xôi của người
(Em
là lục bát của tôi)
Cái chân lý giản dị này Bốn chỉ ngộ
ra từ sau rất nhiều những giả tưởng, lầm lạc. Lầm lạc
vốn là thuộc tính của nhân sinh. Con người là một sinh vật thường rất hay sa
bẫy bởi những giả tưởng, ảo tưởng. Mà những giả tưởng thì đầy ắp trong
cuộc đời này. Bằng những nếm trải của mình, Bốn nhận ra giả tưởng đến với con
người ngay từ buổi lọt lòng trong lời hát ru ngọt ngào (Chuồn chuồn cắn
rốn biết bơi). Phải sau rất nhiều những nghiệm sinh, con người mới ngộ
ra được chân tướng của thân phận mình.
Bảo rằng phía
trước là son
Tôi đi đến hết
đường mòn lại không
.....Bảo rằng khổ
trước sướng sau
Mà trăm năm vẫn
thấy nhau bọt bèo
(Đường
đi)
Thơ Đồng Đức Bốn muốn nói với ta một nghiệm sinh: cát bụi
thì vẫn là cát bụi. Đồng Đức Bốn không muốn mạ vàng cát bụi. Không muốn to tát
hoá cát bụi. Anh muốn cảm nhận cát bụi
như là chính nó. Điều này giải thích vì sao thơ Bốn có rất nhiều nét tự thuật
nhiều khi khá thật thà. Tôi muốn hiểu điểm này như một nguyên tắc thẩm mỹ: Bốn
muốn nói mọi điều từ những xót chua của một thân phận cát bụi, từ chính mình.
Đã là cát bụi thì phải long đong:
Chuông chùa tiếng
đục tiếng trong
Thảo nào cát bụi
long đong thân cò
(Bờ
sông)
Là cát bụi thì suốt đời là vô định, mịt
mờ:
Nghìn năm đi giữa
mịt mờ
Cái gì cũng thấy
ngờ ngờ lo lo
(Chín
xu đổi lấy một hào)
Thân phận cát bụi ấy, Bốn nhìn thấy rõ
nhất qua cuộc đời của mẹ - người đã sống trọn vẹn một đời cát bụi. Sống kiếp
cát bụi nên phải chịu gió mưa:
Còng lưng gánh
chịu gió mưa
Nát chân tìm cái
chửa chưa có gì
(Trở
về với mẹ ta thôi)
Sống kiếp cát bụi thì nói gì đến chuyện
giữ ngọc gìn vàng:
Cầm lòng bán cái
vàng đi
Để mua những cái
nhiều khi không vàng
Cả trong cái chết cùng lấm đầy cát bụi:
Giữa khi cát bụi
đầy trời
Sao mẹ lại bỏ
kiếp người lầm than
(Trở
về với mẹ ta thôi)
Thơ Bốn là thơ: Sự đời cát bụi soi
gương. Đấy là sự cất tiếng của trầm luân, của chúng sinh. Là tiếng chuông
tỉnh thức của thân phận cát bụi lận đận, nổi chìm.
1.3. Nhận chân được thân phận cát bụi của
mình, Đồng Đức Bốn không cầu bình yên. Hạt cát ấy muốn sống thật đủ đầy, thật
trọn vẹn những nổi chìm của thân phận mình. Đây là những câu thơ rất Đồng Đức
Bốn:
Chốc nữa thế nào
cũng giông
Sang đò tôi đến
giữa đồng là mưa
(Đi
đò)
Tựa bão để sống
làm người
... Tôi tựa vào
những nỗi buồn
(Tựa
bão để sống làm người)
..... Đứng trong
cơn bão mà trông
..... Duyên mình
chả bén trầu cau
Thì làm hạt muối
ướp đau lòng chờ
(Mùa
xuân đi phủ Tây Hồ)
Ta hiểu vì sao trong những lặn lội đường
đời, Đồng Đức Bốn muốn đi chân trần trên
gai nhọn của cuộc đời:
Gót chân đỏ cả
đường làng
Bởi quen ngang
tàng dẫm đạp lên gai
(Tôi
là vua không có gai)
Lấy gai tôi bắc
thành cầu
(Cây
bồ kết lắm gai)
Tôi đi trên dòng
sông gai
(Sông
Thương ngày không em)
Và đây nữa:
Vua ngồi chễm chệ
trong ngai
Còn ta ta đứng
trên gai nguyện cầu
(Nguyện
Cầu)
Vậy là. ngay cả trong tư thế nguyện cầu,
kiếp cát bụi ấy cũng không quên thân phận: suốt đời sống trên ngọn gai của
mình.
Không chối từ thân phận dù trong bất kỳ cảnh ngộ nào. Đấy là
trầm luân, là niềm kiêu hãnh cát bụi ?
Có phải vì thế mà Đồng Đức Bốn đã tự
hỏi:
Có ai thương bụi
như là tôi không
(Nhớ
Thụy Khuê)
2. Đồng Đức Bốn tự nhận mình là kẻ mượn
bút của trời, cũng là người được trời ân sủng: Trời cho được cái lộc thơ.
Trong các thể loại thơ thì lục bát là thể loại Đồng Đức Bốn sẽ ghi dấu ấn của
mình vào trong đời sống văn học. Xưa, Nguyễn Công Trứ tự đắc: Trời đất cho
ta một cái tài/ Giắt lưng dành để tháng ngày chơi. Nay, Đồng Đức Bốn cũng
nói một cách đầy tự tín: Mang câu lục bát ra tiêu (Xin người một khúc
mộng mơ). Nói thế kể cũng không là ngoa. Trong bài viết của mình, tôi đã trích
không ít thơ Bốn. Và đó, cố nhiên, mới chỉ là những chấm phá. Một dịp khác tôi
sẽ viết về Đồng Đức Bốn - nhà thơ của đồng quê. Đấy lại là một khoảng trời khác
mà nét tài hoa trời cho của Bốn dường như còn dư dả hơn cả.
Đâu là xung lực cho hành trình thơ của
Đồng Đức Bốn. Câu trả lời, theo tôi, đó là: ca dao. Thơ Bốn từ trong lấm láp,
gai góc cũng như trong những vẻ đẹp trữ tình đều đi ra từ nguồn mạch của ca
dao, của văn học dân gian. Trong các cây bút đương đại ít người có được sự lăn
lóc và nếm trải sâu sắc đến như thế với nguồn mạch của văn học dân gian. Đấy là
dòng văn học trầm tích trong nó kinh nghiệm cộng đồng, kinh nghiệm của chúng
sinh cát bụi. Tắm gội trên dòng sông ấy, thơ Đồng Đức Bốn có được sự vang hưởng
sâu xa trong dòng mạch thời gian, có được những thức ngộ thâm trầm đằng sau lớp
vỏ giản dị thuần phác của ngôn từ.
Nguồn mạch ca dao trong thơ Bốn rất thuần
khiết. Chưa có những nhân tố lạ để tạo nên một hợp chất mới. Đằng sau lục bát
của Nguyễn Du là Đường thi, là tiểu thuyết tài tử. Đằng sau lục bát của Nguyễn
Bính là ý thức của cái tôi cá nhân đến từ phương Tây. Với Huy Cận, lục bát là
sự gặp gỡ của Đường thi và thơ tượng trưng Pháp. Lục bát là một thể loại thuần
dân tộc. Nhưng những đỉnh cao của nó bao giờ cũng là một hợp chất, một tích
hợp.
Đồng Đức Bốn là truyền nhân của ca dao.
Nhưng muốn đi xa hơn nữa, thơ anh cần có sự va xiết với những cái ngoài mình.
Những va xiết như thế sẽ tạo nên một xung lực mới, mở ra một chân trời mới cho
thơ Đồng Đức Bốn.
Tôi muốn nói: hành trình lục bát của Đồng
Đức Bốn chưa dừng lại. Ở phía trước vẫn là những kiếm tìm và vì thế hứa hẹn một
chiều sâu và tầm vóc mới.
Đồng
Xa, ngày 09 tháng 08 năm 2003
Đã in: Tạp
chí Nhà văn, 2.2004
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét