Nhà
văn - anh ta là ai? Anh ta và những tác phẩm của mình đảm nhận những sứ mệnh
nào? đâu là những giới hạn? Đấy là những câu hỏi mà người cầm bút không thể né
tránh. Tuy nhiên, không chỉ có người cầm bút tham gia vào câu trả lời này. Có
những câu trả lời được đề xuất từ phía đại chúng, lại có những câu trả lời đến
từ phía những nhà đạo đức, những nhà chính trị. Có những câu trả lời đến từ
những chuẩn mực truyền thống, lại có những câu trả lời đến từ những áp lực của
hiện tại và tương lai... Tất cả những câu trả lời này, trong đích hướng của
chúng, đều có tham vọng thay nhà văn đưa ra câu trả lời cho chính
anh ta. Chính vì thế, nhà văn, để đưa ra câu trả lời của mình, dù muốn
hay không, cũng phải tiến hành một sự đính chính, khước từ, đối thoại với những
câu trả lời dội đến anh ta từ nhiều hướng. Trên thực tế thì đây là điều bất khả
đối với phần lớn những người cầm bút ở một thời đại cụ thể. Họ, hoặc là thoả
mãn với những câu trả lời có sẵn, hoặc bị “méo”, bị lạc giọng trong tiếng ồn.
Điều này giải thích vì sao chỉ ở những nhà văn hàng đầu những câu hỏi trên mới
trở thành sự cật vấn không khoan nhượng, trở thành một nội dung, thậm chí là nội
dung quan trọng nhất trong các tác phẩm
của họ. Bằng cách trả lời những câu hỏi này họ để lại trong tác phẩm chân dung
tinh thần của mình, cái nhìn phản tỉnh về chính mình. Một cách tự nhiên, đây sẽ
là một tiêu chí để những người làm văn học sử nhận diện về đặc điểm của một
thời kỳ văn học nhất định.
Đi tìm chân dung của nhà văn hiện đại
qua những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là nhiệm vụ của bài viết này. Mặc dù tư
liệu khảo sát chủ yếu là tác phẩm nhưng, trong trường hợp cần thiết, một sự
liên liên hệ đối chiếu với quan điểm về văn học được Nguyễn Huy Thiệp phát biểu
trực tiếp cũng sẽ được tiến hành và thao tác này theo chúng tôi là cần thiết.
1/1.1 Vì nhiều lý do, ở Việt Nam, chức
năng nhận thức và phản ánh hiện thực mặc nhiên được xem là một trong những chức
năng quan trọng nhất của văn học. Nhà văn do đó gánh vác sứ mệnh “thư ký trung
thành của thời đại” như một sự tự nguyện với rất nhiều bận tâm giành cho nó. Với
không ít người, đấy là băn khoăn duy nhất và quan trọng nhất khi cầm bút. Đây
là một quan niệm cần nhận được sự phản biện. Không phải ngẫu nhiên trong triết
học phương Tây hình thành cả một truyền thống từ Lock qua Hume, kết tinh ở
Kant, nối dài đến Popper. Tất cả các nhà triết học này đều không ngừng đặt ra
những câu hỏi về khả năng nhận thức của con người. Con người dùng những phạm
trù tri thức của mình để nhận biết về thế giới, thiết lập mối quan hệ nhân quả,
tương tác giữa các sự kiện mà nó nắm bắt được... Tuy nhiên, tất cả những lý
thuyết, những luận giải đó chỉ là sản phẩm của trí tuệ - một quy ước mà con
người tạo ra hơn là đặc điểm của thế giới khách quan. Ngay như ngôn ngữ - chất
liệu của văn học – cũng là một hệ thống quy ước, nó cung cấp một và chỉ một mà
thôi về cái nhìn thế giới. Bức tranh thế giới trong tác phẩm văn học vì thế thật
èo uột và chẳng có gì là xác tín. Kỳ vọng vào khả năng nhận thức của văn học,
do thế, là một nhầm lẫn to lớn. Nhà văn họ Vũ trong Bài học tiếng Việt
đã cay đắng nhận thấy: vũ trụ là “hỗn độn vô minh... Văn học không
phải là tất cả. Không nên quá coi trọng văn học. Văn học chỉ là từ ngữ. Như
những ngọn gió...”[1]. Những
gì dấu vết đời sống mà văn học tải chở vào trong tác phẩm đôi khi thật vụn vặt,
vô nghĩa, ấm ớ, kiểu như: “Cậu Cấn chồng
cô Sinh là thương binh. Họ quen biết nhau trong dịp tình cờ. Hai người cùng trú
dưới hiên nhà trong một trận mưa. Chuyện này đã có người viết (thế mới biết nhà
văn ở ta xông xáo!). Theo đồn đại, đại để đấy là một “xen” (scene) về tình yêu
giản dị, trong sáng, không vụ lợi, cuộc sống là duy vật biện chứng, hài hòa,
đẹp, đáng yêu, v.v...”[2]. Không
mấy khó khăn để nhận ra giọng giễu nhại trong đoạn văn trên. Cũng xin lưu ý: sự
lạm phát rất nhiều những tính từ ở câu kết trong đoạn văn trên không đưa lại
một sự chân thực nào cho lời kể nếu không muốn nói là khiến cho những gì được
nói tới càng trở nên tù mù. Dưới dạng trực tiếp, trong tiểu luận Thời của tiểu thuyết, Nguyễn Huy Thiệp
công khai bày tỏ sự nghi ngờ trong năng lực nhận thức hiện thực của văn học:
tiểu thuyết “không phải là tấm gương soi của thời đại gì hết: nó kể chuyện
và nhầm lẫn lung tung ”[3].
Có lẽ chính vì thế mà Nguyễn Huy Thiệp trong phần lớn những tác phẩm của mình
hoàn toàn gạt bỏ vai trò của miêu tả. Thay vào đó, lối kể theo kiểu liệt kê các
sự kiện, các cảm giác (thuần túy chỉ là những cảm giác) được nhà văn này đặc
biệt ưa thích. Miêu tả bao giờ cũng hàm trong nó một sự lý giải và cắt nghĩa
nào đó về đối tượng. Kể cho phép nhà văn có thể giấu đi mọi sự cắt nghĩa - mà
thuộc tính của chúng là sự phiến diện và sai lạc. Trên văn bản chỉ là những
chuỗi sự kiện được tái hiện trần trụi với giọng văn lạnh.
Lý
giải, cắt nghĩa về hiện thực, như thế, là một nhầm lẫn to lớn, một sứ mệnh bất
khả mà người ta đã bắt văn học phải mang vác. Với một nhà văn hiện đại đó là
điểm đầu tiên phải khước từ.
1.2.
Các nhà văn trong những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là những người có thể
tạng mẫn cảm. Họ hiểu và cảm nhận một cách tinh tế sức ép của cuộc đời lên tồn
tại của một cá thể. Có khi họ còn được miêu tả như một nhà tiên tri thấu thị.
Rất tinh tế nhưng bất lực. Tất cả họ đều bị lún sâu trong đám bùng nhùng của
hiện thực đời sống, hoàn toàn không có khả năng tác động đến hiện thực. Nhân
vật thi sĩ trong Sang sông là như thế (sức mạnh hành động trong tác phẩm
này là tên buôn đồ cổ, anh thanh niên, và đáng kể nhất là tên cướp), Nguyễn Du
khi đặt bên cạnh chân dung của Gia Long (Vàng lửa) là như thế. Với tất
cả sự tàn nhẫn của mình, vua Gia Long vẫn có năng lực: “làm cho lịch sử sinh
động hẳn lên”, đem tới “sức đẩy ...với khối cộng đồng” - điều mà
Nguyễn Du không bao giờ có được. Trong Mưa Nhã Nam, Đồ Ngạn khi đứng
trước một nhân vật mạnh mẽ như Hoàng Hoa Thám đã nhận thấy chuyện làm thơ của
mình là một hành vi “đê tiện”. Đồ Ngạn nói với Hoàng Hoa Thám bằng tất
của sự mặc cảm của những kẻ cầm bút: “Anh là một thi sĩ ma vương...Anh đã làm
những điều mà bọn văn chương suốt đời thèm muốn. Chúng không làm sao biến được
ngọn bút của chúng thành ngọn giáo hay cái câu liêm”[4].
Những
trình bày ở trên đặt ta trước một thức nhận: người nghệ sĩ - trong hành trình
nhận thức về mình - phải thoát ra khỏi những nhầm lẫn “vương giả” - những nhầm
lẫn gắn liền với những danh xưng đẹp đẽ, cao quý: người thư ký của thời đại,
nhà cách mạng, người dự báo hiện thực... Thoát khỏi những nhầm lẫn này không hề
đơn giản và dễ dàng vì như thế nó khiến nhà văn phải đối lập mình với những
kỳ vọng, những hình ảnh đẹp đẽ của họ trong nhận thức truyền thống của cộng
đồng. Nếu như ở đây cần một so sánh thì có lẽ là: trong quá khứ Nam Cao,
Nguyễn Minh Châu tự đấu tranh và mổ xẻ chính mình để vươn tới những thiên chức
mà cộng đồng đã kỳ vọng về họ thì trong hiện tại Nguyễn Huy Thiệp hiệu đính lại
để chỉ ra những bất khả, những giới hạn mà nhà văn và tác phẩm của mình chẳng
thể vượt qua. Nhà văn và tác phẩm của họ không có nhiều sức mạnh như đã từng bị
ngộ nhận. Và việc chấp nhận những giới hạn này như một thực tế là một sự dũng
cảm tê tái đối với người cầm bút. Hiểu thế mới thấy hết sự dũng cảm của nhân
vật Tú Xương khi ông giữ khoảng cách với tiếng gọi Đông Du đầy thống thiết. Ông
có con đường của riêng mình. Những dòng cuối cùng của truyện ngắn này là hình
ảnh: “Tú Xương đi. Kìa Tú Xương đang đi... Ông “thõng tay vào chợ”[5].
Ông Tú, rốt cục, đã đi theo con đường của mình - một nhà thơ. Ông biết rõ, và
dũng cảm chấp nhận những giới hạn của mình. Cách đặt vấn đề này thực sự là sự giải
thiêng đối với những huyền thoại về nhà văn và văn học. Những huyền thoại thật
đẹp (và đã từng đảm nhận những sứ mệnh trọng đại ở những thời kỳ nhất định)
nhưng giờ đây cần phải được gỡ bỏ để đảm nhận những sứ mệnh (cũng là những
huyền thoại?) mới.
2./
Sứ mệnh của một nhà văn hiện đại được thực hiện trong sự cô đơn tuyệt đối.
2.1 Sứ mệnh duy nhất của nhà văn, không
gì khác đó là hướng đến những giá trị nhân văn. Thoạt nhìn đấy là một mệnh đề
cũ kỹ. Điểm khác biệt là ở chỗ các nhà văn trước Nguyễn Huy Thiệp nói đến nó
với sự hân hoan, với niềm tin về nhân văn như là một hằng số của tồn tại người
- những hạt ngọc ẩn giấu trong cuộc đời mà nhà văn là kẻ kiếm tìm. Một cuộc
kiếm tìm mà dù nhọc lòng đến đâu, lầm lạc đến đâu thì rồi cũng sẽ được đền đáp một
cách xứng đáng. Nguyễn Huy Thiệp nói về sứ mệnh này một cách căng thẳng, bi
phẫn: “Điều khốn nạn, trớ trêu và cũng là điểm yếu của một nhà văn là dù
hiểu đời, lịch lãm đến đâu cuối cùng anh ta vẫn phải hành xử và biết trình bày
tư tưởng nhân đạo một cách nghệ thuật. Giá trị nhân đạo là lý do duy nhất để
cho văn học tồn tại”. Tại sao lại là
“khốn nạn”, “trớ trêu”, “điểm yếu ”? Trong cách nói này, giá trị nhân đạo dường
như là một tương phản với kinh nghiệm đời sống của nhà văn. Nói cách khác: nhân
đạo đó không phải là một giá trị hiện tồn, trong logic của thực tại đời sống nó
lầm lạc và yếu đuối. Giá trị nhân đạo là một logic khác với logic của thực tế
đời sống. Đây là một vấn nạn của xã hội hiện đại ở đó sự thành công là biện
minh cao nhất cho mọi hành xử của con người. Ngay từ những năm 1918, Spengler
đã viết cuốn sách Hoàng hôn của phương Tây tiên tri cho hậu thế với một
cảm nhận chua chát: “Bộ não lên ngôi vua bởi vì tâm hồn đã về hưu”. Ở
Việt Nam, tác phẩm đầu tiên cho thấy sự đồng điệu với cảm nhận này của
Spengler, có lẽ là Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác (được viết vào
những năm 1978 - 1981) khi để cho nhân vật Nguyễn Hữu Chỉnh thuyết lý: “phân
chia thiện ác là điều không hợp với luật tự nhiên ...Thiện là thành, ác là bại.
Hễ thành công thì tự nhiên thiện. Cho nên điều quan trọng là phải thành công”[6]
Càng ngày, cảm nhận này càng là một ám ảnh trong văn học Việt Nam. Người ta
hoảng sợ, tê tái nhận thấy: cái ác đem lại sự thành công, đem lại sức mạnh. Đây
là cảm nhận của một ông vua - bậc chí tôn - về sự cần thiết và mạnh mẽ của cái
ác: “ Kẻ làm quan làm vua có thể chẳng ác nhưng phải làm ác. Cái ác gắn với
vua quan. Cái ác làm món ăn của vua quan. Thiếu cái ác một ngày, ngai vàng buồn
rầu. Thiếu cái ác vài tuần trăng, ngai vàng rung rinh. Thiếu cái ác một năm
ngai vàng sụp đổ...Cái ác và cái cuồng nộ bao giờ cũng sống bầy đàn đông
đúc...cái tàn nhẫn cuồng nộ phải đâu có phần quyến rũ” [7].
Cái ác đồng nghĩa với cái hợp lý. Nó chinh phục và khẳng định sức mạnh tuyệt
đối của mình dù khiến người ta phẫn nộ và tủi hổ. “Đúng một cách khốn kiếp”
- đấy là thực tại mà chúng ta đang phải đối mặt. Định đề này được Nguyễn Huy
Thiệp đề xuất và ngay lập tức ông không cô đơn trong kinh nghiệm sống này của
mình. Nhưng những nhà văn trong tác phẩm của ông thì tuyệt đối cô đơn: “Tư
tưởng nhân đạo, tình cảm nhân đạo sẽ chẳng được ai đoái hoài nếu không có những
nhà văn”[8]. Trong
khi cảm nhận tất cả những va xiết của cuộc đời thực, nhà văn, người nghệ sĩ
không ngừng căng thẳng hướng về cái đẹp tuyệt đối. Đấy là hình ảnh của Trương
Chi khi chàng hát:
Những khao khát
của ta
Hướng
về tuyệt đối
Ta là Trương Chi
Ta
ca ngợi tình yêu
Nở từ hạt
thiện
Và
bông hoa của tự nhiên
Là sự
chân thật lạnh buốt[9]
Đấy
cũng là hình ảnh của Nguyễn Trãi từ cảm nhận của Nguyễn Thị Lộ: “Ông là một
nhà duy mỹ. Đạo đức duy mỹ chất chứa hiểm nguy, chất chứa phiêu lưu nhưng nó
sâu sắc, không bịp bợm, hẳn nó giá trị gấp nhiều triệu lần thứ đạo đức duy lý
trắng trợn của trật tự bầy đoàn”. Phẩm chất này khiến Nguyễn “cô đơn
giữa đời như một hành tinh hoặc một ngọn gió”[10].
Tha
thiết và không ngừng tạo lập trong tác phẩm của mình những giá trị nhân đạo -
những giá trị mất giá trong logic đời sống thực tại đưa lại cho văn học một sứ
mệnh mới: không phải là sự ngợi ca mà sự phản biện với toàn bộ trật tự
của đời sống hiện tồn - một trật tự đầy sức mạnh, lịch sự và bóng bẩy.
Sự phản biện này buộc người ta phải đặt câu hỏi về sự tồn tại của toàn bộ thế
giới quanh mình, về chính mình. Đấy là một trạng thái thật chẳng dễ chịu gì.
Con người là động vật có lý trí và vì thế nó có thêm khả năng tô vẽ và biện
minh cho những hành động của mình. Nó cần điều này để “tỉnh táo, lạnh lùng,
dứt điểm”. Phải đặt câu hỏi về những gì mà nó tô vẽ khiến người ta khó chịu
nếu không muốn nói là phẫn nộ. Anh Lai - một Vụ trưởng sắp đi làm đại sứ ở nước
ngoài, một người đầy học thức và thông minh - đã phẫn nộ ném ra những chất vấn
cho nhân vật nhà văn trong tác phẩm: “Chú là ai? Tại sao chú lại viết ra
những thứ làm cho mọi người dằn vặt lòng mình? Chú có quyền gì? Ai trao cho chú
cái quyền năng ấy? ...Từ bản chất, tôi vừa căm ghét vừa sợ hãi, cảm phục những
người như chú”[11].
Từ sớm hơn, nhân vật diễn viên - thi sĩ trong Chút thoáng Xuân Hương đã
nói về sứ mệnh oái oăm này của văn học băng một giọng dằn dỗi: “Văn chương
là thứ bỉ ổi bậc nhất!... Nó gây ra sự nổi loạn trong cuộc đời thường. Cuộc đời
trôi đi đơn giản. Day đi dứt lại làm gì?”[12].
Kant có một nhận xét sâu sắc: không thể kết án đạo đức cho một con rắn độc. Nó
không biết tự vấn, phán xét. Con người thì không thể. Nó dằn vặt, trằn trọc,
phán xử mình. Thường thì, để tự vệ nó không dám nhìn thẳng vào mình. Và văn học
là sự nhắc nhở lương tâm và sự phán xét mỗi khi con người không còn đủ năng lực
để đối diện với mình. Văn học hiện đại là một thứ văn học xa lạ với cảm
hứng ca hát. Nó không chiều chuộng và ve vuốt. Nó khinh bạc, chất vấn gây hấn
nữa. Nhưng trong tầng sâu ngầm ẩn lại vời vợi nỗi buồn, nhiều khi tê
tái. Để đo tầm vóc của nỗi buồn ấy, tôi xin trích dẫn ra đây một nhận xét của
chính Nguyễn Huy Thiệp: “Khoảng hơn chục năm trở lại đây, ở Việt Nam không
có những nhà văn có phong độ, khí phách lớn. Đến ngay cả nỗi buồn cũng không
phải là nỗi buồn lớn”[13].
Nỗi buồn lớn theo tôi hiểu là nỗi buồn khiến người ta phải dằn vặt, bất an,
không ngừng đưa ra những chất vấn về sự hiện tồn của chính mình. Bằng cách ấy,
theo logic của Kant, văn học trở thành nơi lưu giữ của nhân tính. Ta hiểu vì
sao khi Nguyễn Huy Thiệp cay đắng “nhận ra sự vô nghĩa của văn học” - còn gì vô
nghĩa hơn khi theo đuổi một logic ảo ảnh- thì cũng đồng thời ông đã làm xuất
hiện trước ta thiên chức cao cả của văn học: cô đơn đặt ra những câu hỏi mà bầy
đàn với sự thực dụng mạnh mẽ mù quáng của mình gạt bỏ.
2.2.Khi
vẽ chân dung các nhà văn, những người nghệ sĩ Nguyễn Huy Thiệp thường không
miêu tả những đặc điểm nhân dạng của họ. Ngoại hình của họ là kết quả của những
trải nghiệm nhân sinh, là thứ ngôn ngữ trực tiếp cho thấy cảm nhận của họ về
cuộc đời. Thường thì đó là những chân dung nhàu nát, bám đầy bụi đời và nỗi đau
khổ. Đây là chân dung của Nguyễn Du: “một người bé nhỏ (tại sao lại bé
nhỏ? trước những đau khổ của cuộc đời này có ai là không bé nhỏ? - TVT chú), mặt
nhàu nát vì đau khổ”[14].
Cũng như thế là chân dung của nhân vật nhà thơ trong Hạc vừa bay vừa kêu
thảng thốt: “Hắn đội chiếc mũ cát trắng rộng vành, chiếc mũ đã cũ, ngả
màu cháo lòng(...)Hắn đã nếm trải bao nhiêu phong trần, bao nhiêu thay đổi trên
đời(...),nỗi u hoài tê tái trong đáy mắt hắn”.[15]
Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là: những cảm nhận và trải nghiệm về cuộc đời,
với người cầm bút, đó chính là tài sản duy nhất của họ. Thứ tài
sản ấy, với số đông, thật khó chia sẻ. “Những một mình em uống rượu hồng”,
“Sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây” - trong cảm nhận của cậu con trai hay
chữ và cô gái mười tám tuổi - những câu thơ ấy cô đơn và bí ẩn như chính người
viết ra chúng. Đấy là những câu thơ mà người ta phải cân nó bằng tất của những
trải nghiệm buồn vui của một đời. Quan trọng hơn, để có được thứ tài sản ấy họ
phải không ngừng sống, không ngừng cảm nhận những va xiết về cuộc đời. Không
ngừng trình ra những cảm nhận, định giá về đời sống. Những định giá, và cảm
nhận của họ như tôi đã nói ở trên luôn đem lại cảm giác về sự bất an trước thực
tại bằng cách đặt ra vô số những câu hỏi về tồn tại. Đặc điểm này khiến cho
viết văn trở thành một nghề nghiệp bất trắc. Trong truyện ngắn Chút thoáng
Xuân Hương, Nguyễn Huy Thiệp dựng nên cuộc đối thoại, ở đó tri huyện Thặng
- không chút khách khí- đã cảnh báo: “Không
hách thì để cho bon văn chương các chú làm loạn à? Văn chương là miếng đất nghịch”[16].
Thông điệp này, một lần nữa, được nhắc lại trong truyện ngắn Hạc vừa bay vừa
kêu thảng thốt với lời bình luận của lão bộc về nghề nghiệp của thi sĩ: “Thưa
ông, nghề nghiệp của ông thật nguy hiểm”. Người lão bộc hiền lành vô danh
ấy, một cách hồn nhiên, đã trở thành một tín sứ truyền đạt một cách trung thành
nhất thông điệp của quan chánh Cẩm (biểu tượng của an toàn và trật tự xã hội):
“...hễ mà loạn thì phải bắt ngay những người làm thơ trước đã”[17].
Sự hồn nhiên ở đây, vào một thời điểm nào đó sẽ là sự đồng tình, một thứ công
cụ tự nguyện. Điều này đòi hỏi sự dấn thân và hơn thế là sự trung thực của nhà
văn để thực hiện sứ mệnh nghề nghiệp của mình. Có lẽ chỉ trong thời hiện đại
người ta mới thấy hết khó khăn của sự nói. Trước trật tự xã hội, nhà văn có thể
toan tính, mặc cả về những trải nghiệm của mình. Anh ta có thể sẽ tự hỏi theo
kiểu Hăm-lét: nói hay không nói. Tuy nhiên, do chỗ, như đã nói ở trên: kinh
nghiệm và trải nghiệm về cuộc đời là tài sản duy nhất của nhà văn nên sự
khôn ngoan, toan tính trong việc trình bày những kinh nghiệm sống của mình sẽ đặt
anh ta trước nguy cơ trắng tay với tư cách một người cầm bút. Anh ta,
để thực hiện thiên chức của mình, không có một lựa chọn nào khác là buộc phải
trình ra trung thực đến tận đáy kinh nghiệm sống của mình. Để làm được điều ấy,
đương nhiên đòi hỏi sự dũng cảm, quá nhiều những sự dũng cảm. Trong tiểu luận
gây nhiều tranh cãi: Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà
văn, có một thức nhận rất đáng lưu tâm của Nguyễn Huy Thiệp: ở các nhà văn
ở thế hệ trước như Tô Hoài “những kinh nghiệm viết văn của họ luôn đan xen
với những kinh nghiệm đối nhân xử thế. Văn học ...hiển nhiên là “nghệ thuật
sống””, nhà văn là người “chiêm nghiệm nhiều hơn thể nghịêm[18]”.
Khi văn học trở thành “nghệ thuật sống”, trở thành “kinh nghiệm đối nhân xử
thế” ta có những nhà văn khôn ngoan và lịch lãm nhưng những trang viết của họ
vì thế có nguy cơ trở nên “sạch sẽ một cách gớm ghiếc”. Trong thời hiện đại, “Thức
ăn của văn học là cuộc sống của chính tác giả”. Nhà văn không thể là những
chân dung sạch sẽ, hoạt bát theo kiểu một lái buôn, biết nói những câu bông đùa
tinh tế, “những đối thoại hóm hỉnh kiểu phòng khách” (chân dung của
Hoàng trong Bài học tiếng Việt). Anh ta phải sống, phải trả giá. Không
ngừng cảm nhận những xô đẩy tăm tối của định mệnh. Không ngừng săn đuổi những
cảm nhận mà cuộc đời đã chọn anh ta để gửi lại những dấu vết của mình. Như ta
sẽ thấy sau này, tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp luôn làm người ta khắc khoải và
sợ hãi trước những cảm nhận tê buốt về những lẽ đời được trình bày một cách
trần trụi. Không thể có sự nhân nhượng và thỏa hiệp khi cầm bút cho dù thỏa hiệp
có lẽ là kinh nghiệm làm người quan trọng nhất trong “muôn sự ở đời”. Một
chân dung về nhà văn như thế tuyệt đối không hứa hẹn danh vọng và phù hoa như
sự ngộ nhận của ông bố và bà mẹ của nhân vật xưng tôi trong truyện ngắn Chú
Hoạt tôi[19].
Trái lại, lựa chọn làm một nhà văn đòi hòi sự dũng cảm, sự phiêu lưu với chính
cuộc đời của mình. Một lựa chọn như thế, đương nhiên, không thể là một lựa chọn
cho đám đông. Thêm một lý do khiến cho nhà văn hiện đại là một thân phận cô
đơn. Sự cô đơn của lòng dũng cảm.
2.3
Những gì đã trình bày ở trên cho thấy cô đơn là định mệnh và cũng là yếu tính
của nhà văn hiện đại. Cô đơn là cách thế để nhà văn nối mình với nhân dân, với
lịch sử. Sự thỏa hiệp và ve vãn những thị hiếu của bầy đàn sẽ giết chết người
nghệ sĩ. Trương Chi đã có lúc hát ca ngợi công danh, ca ngợi tiền bạc. Đấy là
khoảnh khắc thảm hại nhất của chàng: “Chàng khò khè trong cổ. Chưa bao giờ
chàng hát một bài hát thô bỉ thế này. Bài hát chỉ toàn “ấy a” với lại “huầy
dô”. Bài hát đông người”[20].
Cô đơn là bi kịch tất yếu và cần thiết để nhà văn thực hiện sự mệnh của mình:
họ là đại diện cho những ăn năn, cho sự ưu tư trên vầng trán của cộng đồng. Một
sứ mệnh vinh quang nhưng, trước tiên, thật bạc bẽo! Nguyễn Huy Thiệp không hề
ngộ nhận về vinh quang của một nhà văn: “Về cơ bản, nhà văn đứng về số đông
nhân dân, đôi khi bất đắc dĩ còn là đại diện không công của họ, một danh chức
hão huyền chẳng báu bở gì ”[21].
Điều đáng trân trọng là Nguyễn Huy Thiệp và các nhân vật nhà văn của anh đã
chấp nhận danh chức cũng đồng thời là danh phận ấy!
3. Trở lại với những câu hỏi về nhà văn
và tác phẩm được nêu ở phần mở đầu. Đấy là những câu hỏi mà mọi câu trả lời về nó đều chịu sự ước thúc của
lịch sử. Điều ấy cũng có nghĩa là nó luôn đòi hỏi những câu trả lời mới, những
đính chính và kèm theo đó là những ngộ nhận mới. Nguyễn Huy Thiệp với câu trả
lời của mình cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Nếu nó đã góp phần đính chính
thì nó cũng đồng thời chờ đợi một sự đính chính trong tương lai.
Những
trình bày của chúng tôi chắc chắn là sơ lược và nhiều ngộ nhận. Chỉ xin lưu ý:
để nhận diện về văn học hiện đại không thể bỏ qua việc nhận diện về những đặc
tính của chủ thể sáng tác, nhận diện những câu hỏi mà người cầm bút - hoặc hữu
thức, hoặc vô thức - phải đối diện trước nó. Bài viết này, nếu có một ý nghĩa
nào đó, thì không phải là giải quyết mà chỉ là: đặt ra một vấn đề cần tiếp tục
đi sâu nghiên cứu.
Hà
nội, 4/2005
Đã in: Văn học Việt Nam sau
1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (Nguyễn
Văn Long chủ biên)- Nxb GD 2006, p.131-140.
[1] Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp – NXB Trẻ
2003 – Tr690. Tất cả những trích dẫn về Nguyễn Huy Thiệp trong bài viết nếu
không chú đều rút từ sách này.
[2] Tldd – tr.53
[3] Nguyễn Huy Thiệp – Thời của tiểu thuyết – báo Ngày
nay – số 21 - 2003
[4] Tldd – tr 286
[5] Thương
cả cho đời bạc - Tlđd – tr 533
[6] Nguyễn Mộng Giác – Sông Côn mùa lũ tập 1– NXB
Văn học 2003– in lần thứ hai – tr530,531
[7] Nguyễn Xuân Khánh – Hồ Quý Ly – nxb Phụ nữ - HN 2002 – tr.723
[8] Nguyễn Huy Thiệp -Tuổi hai mươi yêu dấu (tiểu
thuyết)– chương 30
[9] Trương
chi – Tlđd – tr 468,469
[10] Nguyễn Thị Lộ - Tlđd – tr 450,455
[11] Quan âm chỉ lộ - báo Ngày nay – số Tểt Ất Dậu 2005
[12] Tlđd – tr 429
[13] Nguyễn Huy Thiệp – Trò chuyện với hoa
thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn – Báo Ngày Nay số 5 - 2004
[14] Tlđd – tr 211
[15] Tlđd – tr 549, 552, 555
[16] TLđd – tr 417
[17] Tlđd – tr 554
[18] Nguyễn Huy Thiệp – Trò chuyện với hoa
thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn – Báo Ngày Nay số 4 - 2004
[19] “thỉnh thoảng, độ dăm ba tháng, bố tôi
lại lục đâu ra được một bài thơ, bài vè gì đó của chú Hoạt ở trên một tờ báo
lẻ(...). Dần dần, không hiểu sao bố tôi dứt khoát tin rằng chú Hoạt là người
thành đạt lắm ở trong xã hội, còn mẹ tôi thì chắc mẩm chú Hoạt đã rất giàu” –
Tlđ d – tr.682
[20] Trương Chi – Tlđd – tr 495, 496
[21] Nguyễn
Huy Thiệp – Tuổi hai mươi yêu dấu (tiểu thuyết) – chương 30
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét