Một tiêu chí quan trọng để nhận diện
về tính chất của một giai đoạn văn học là vị thế xã hội của nhà văn: nó tiết lộ
những tương tác phức tạp của văn học với các nhân tố khác như: bảng thang giá
trị trong xã hội, những định hướng từ chính trị... Một cái nhìn lướt qua mang
tính đối chiếu giữa vị thế xã hội của nhà văn giai đoạn 1945 - 1975 và từ sau
1975 đến nay có thể giúp ta nhận thức rõ hơn về ý nghĩa văn học sử của khái
niệm công cụ này.
1. Giai đoạn 1945 - 1975, nhà văn được xem là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng của Đảng. Điều này đưa lại cho họ những đặc điểm sau:
-được nhà nước đặc biệt quan tâm và
ưu ái. Tổ chức Hội nhà văn thực chất là một thiết chế nhà nước hóa hoạt động
sáng tác. Nhà văn trở thành một viên chức của bộ máy nhà nước, họ được nhận
lương. Sáng tác của họ được nhà nước bao tiêu và trả tiền (điều này đi ngược
lại với khuynh hướng thị trường và tự nhân hóa văn học dưới hình thức văn đoàn
và thi xã của văn học trước 1945). Vì những lí do trên vị thế của nhà văn trong
đời sống cộng đồng được đặc biệt đề cao. Họ được xem là người phát ngôn cho nhà
nước đã đành. Hơn thế họ còn được hình dung như người dẫn dắt, hướng đạo cho
đời sống tinh thần của quảng đại quần chúng. Họ và những tác phẩm của mình được
xem là lương tâm và chân lí của thời đại. Câu thơ của Tố Hữu: Từ đấy trong
tôi bừng nắng hạ dù được viết trước 1945 nhưng rất đặc trưng cho tâm thế và
vị thế của nhà văn giai đoạn 1945-1975: là người tiếp nhận ánh sáng của chân
lý, của lí tưởng cách mạng và có sứ mệnh đem nguồn ánh sáng ấy chan hòa vào
trong đời sống của quần chúng nhân dân, của cả cộng đồng. Hào quang về sứ
mệnh này là mẫu số chung của mọi người cầm bút bất kể tài năng của họ có khác
biệt nhau đến đâu. Hình thành một mối quan hệ khá độc đáo giữa nhà văn và
độc giả: nhà văn dường như đứng ở bên trên độc giả để định hướng và dẫn dắt độc
giả. Một vị thế khiến người ta nghĩ đến thời hoàng kim của văn học Nho giáo
truyền thống với chức năng tải đạo, giáo huấn. Điều này khiến những học giả như
Nguyễn Khắc Viện từ giữa những năm 1960 đã đặt câu hỏi về một sự tương đồng nào
đó giữa chủ nghĩa Mác khi được truyền vào những nước Đông á với Nho giáo truyền
thống. Và sau này, vào cuối những năm 1970, là cách đặt vấn đề về một nền “văn
học phải đạo” của Hoàng Ngọc Hiến. Chữ “phải đạo” khiến cho cách nói của Hoàng
Ngọc Hiến dễ bị hiểu là một sự đánh giá không cao văn học 1945 – 1975 và chính
vì thế đã gây cho người viết những sóng gió. Nếu dùng cách diễn đạt truyền
thống: “tải đạo” thì sự trung tính của văn phong khoa học sẽ rõ nét hơn. Và
theo chúng tôi, chỉ xét trong mối quan hệ giữa nhà văn với nội dung mà anh ta
thể hiện; nhà văn trong mối quan hệ với độc giả, thì tính chất “tải đạo” trong
văn học 1945 – 1975 là khá rõ.
-nhưng mặt khác, vai trò viên chức
nhà nước của nhà văn cũng đồng thời qui định khuôn khổ và tính chất trong những
sáng tác của họ. Phải tuân thủ theo những chủ trương và chính sách của Đảng.
Sáng tác không phải là hoạt động tự do cá nhân mà là một công việc quan phương.
Không phải là không có những khuyến khích sự đa dạng và những tìm tòi trong
phong cách, trong cá tính sáng tạo (được thể hiện trong các nghị quyết và cả
những phát ngôn công khai của các lãnh tụ, các nhà lãnh đạo văn nghệ) nhưng tất
cả phải ở trong một khuôn khổ đã định sẵn. Quan niệm dung tục về nội dung và
hình thức: xem nội dung là cái có trước rồi từ đó thiết kế một hình thức phù
hợp càng khiến cho hoạt động sáng tác dễ rơi vào khuynh hướng minh họa cho
những tư tưởng, đường lối mà Đảng và nhà nước đã vạch ra.
-Nhìn chung, số đông các nhà văn,
sống yên ổn trong môi trường văn học này. Họ có một bổn phận để thực hiện. Có
một vị thế xã hội được tôn trọng. Đời sống vật chất tuy không cao nhưng đó là
mặt bằng chung của toàn xã hội và điều kiện chiến tranh cũng dễ khiến người ta
thỏa mãn với những gì tối thiểu. Trong sự so sánh với sự hi sinh của những
chiến sĩ ngoài mặt trận thì sự đòi hỏi hưởng thụ quả thực là một hành vi đáng
lên án về mặt đạo đức.
Nhưng ở những cá tính lớn thì vị thế viên chức đưa đến một bi kịch cho sự sáng tạo. Sáng tạo với người cầm bút đích thực là bản năng sống trước khi là một mệnh lệnh, một ý thức về đạo đức nghề nghiệp. Dễ hiểu là vì sao, sau này, khi ngọn gió đổi mới khởi lên thì một cây bút như Nguyễn Minh Châu lại viết một cách thống thiết như thế về một nhu cầu: đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh họa.
Nhưng ở những cá tính lớn thì vị thế viên chức đưa đến một bi kịch cho sự sáng tạo. Sáng tạo với người cầm bút đích thực là bản năng sống trước khi là một mệnh lệnh, một ý thức về đạo đức nghề nghiệp. Dễ hiểu là vì sao, sau này, khi ngọn gió đổi mới khởi lên thì một cây bút như Nguyễn Minh Châu lại viết một cách thống thiết như thế về một nhu cầu: đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh họa.
Ta đang chứng kiến một sự mắc kẹt khá
oái oăm trong vị thế viên chức nhà nước của người cầm bút: là một vinh dự ở
phương diện vị thế xã hội nhưng đồng thời lại là một bi kịch cho anh ta với tư
cách là một người sáng tạo nghệ thuật. Tùy theo cá tính, mức độ tài năng và
những biến đổi của đời sống xã hội mà mỗi người cầm bút sẽ có những cảm nhận
riêng ở cực này hay cực kia.
2 Từ sau 1975, vị thế xã hội của người cầm bút có nhiều
thay đổi:
-trong chiến tranh sự đoàn kết toàn
dân đòi hỏi sự chia sẻ những chân lí chung mà nhà văn tuy không phải là người
đề xướng nhưng lại là người thể hiện nó một cách sâu rộng và thấm thía nhất.
Đời sống dân sự không có đủ nhiệt lượng cần thiết để người ta sống và say mê
với những chân lí cộng đồng (hay nói theo cách nói của Loytard là những đại tự
sự) như thế nữa. Vị thế là người truyền tin cho chân lí thời đại của nhà văn
bắt đầu bị lung lay. Sự tiếp sức từ phía nhà nước có thể duy trì cho họ những
đầu sách nhưng lại không thể đem đến cho họ sự tán thưởng, say mê từ phía người
đọc. Nhà văn trong khi vẫn là những viên chức mẫn cán, những công dân chuẩn mực
của chế độ bắt đầu đối diện với một thực tế thật khó chấp nhận với tư cách một
người cầm bút: bị lãng quên, mất giá từ phía người đọc.
-từ cuối những năm 80 trở đi, cùng với sự xóa bỏ của cơ chế bao cấp thì đời sống văn học từng bước được thị trường hóa. Và cùng với điều đó, vị thế của nhà văn và độc giả cũng được thay đổi tận gốc. Độc giả không còn đóng vai trò khiêm tốn và nhún nhường trước nhà văn nữa. Họ, với dư luận và thị hiếu của mình, tự kiến tạo và tìm kiếm cho mình một nhà văn thích hợp. Nguyễn Huy Thiệp đã xuất hiện trong bầu không khí đó. Khi Nguyễn Huy Thiệp nhận mình là người gặp thời thì đấy không phải là một sự nhún nhường mà là một sòng phẳng của một người trong cuộc. Vậy nên, như ta đã thấy, việc nhà văn này trở thành Hội viên hội nhà văn không có mấy ý nghĩa với sự thành công và sức hấp dẫn của anh ta với độc giả. Trái lại nó cho thấy sự nhượng bộ của những nguyên tắc chính thống trước một hiện tượng mà đời sống văn học đã thừa nhận trước khi được những tổ chưc quan phương phê duyệt.
Chính trong một điều kiện như thế mà vấn đề cá tính sáng tạo trở thành một ám ảnh, trở thành sự tra vấn nội tâm nhức nhối của người cầm bút. Sự độc đáo, khát vọng sáng tạo, khát vọng đổi mới thậm chí trở thành một hiện tượng có tính chất thời trang. Người ta nói đến nó một cách thường xuyên, tha thiết một cách thành thật dù rằng, một cách khách quan, sự cách tân và đổi mới vốn không phải là thuộc tính dành cho đám đông và người ta không thể có nó chỉ bằng cách là nói thật nhiều về nó.
-từ cuối những năm 80 trở đi, cùng với sự xóa bỏ của cơ chế bao cấp thì đời sống văn học từng bước được thị trường hóa. Và cùng với điều đó, vị thế của nhà văn và độc giả cũng được thay đổi tận gốc. Độc giả không còn đóng vai trò khiêm tốn và nhún nhường trước nhà văn nữa. Họ, với dư luận và thị hiếu của mình, tự kiến tạo và tìm kiếm cho mình một nhà văn thích hợp. Nguyễn Huy Thiệp đã xuất hiện trong bầu không khí đó. Khi Nguyễn Huy Thiệp nhận mình là người gặp thời thì đấy không phải là một sự nhún nhường mà là một sòng phẳng của một người trong cuộc. Vậy nên, như ta đã thấy, việc nhà văn này trở thành Hội viên hội nhà văn không có mấy ý nghĩa với sự thành công và sức hấp dẫn của anh ta với độc giả. Trái lại nó cho thấy sự nhượng bộ của những nguyên tắc chính thống trước một hiện tượng mà đời sống văn học đã thừa nhận trước khi được những tổ chưc quan phương phê duyệt.
Chính trong một điều kiện như thế mà vấn đề cá tính sáng tạo trở thành một ám ảnh, trở thành sự tra vấn nội tâm nhức nhối của người cầm bút. Sự độc đáo, khát vọng sáng tạo, khát vọng đổi mới thậm chí trở thành một hiện tượng có tính chất thời trang. Người ta nói đến nó một cách thường xuyên, tha thiết một cách thành thật dù rằng, một cách khách quan, sự cách tân và đổi mới vốn không phải là thuộc tính dành cho đám đông và người ta không thể có nó chỉ bằng cách là nói thật nhiều về nó.
-Điều oái ăm nhất là ở chỗ: trong nỗ
lực sáng tạo của mình, nhà văn phải đối mặt với một thực tế: trong khi theo
đuổi cách tân nghệ thuật của mình nhà văn cũng đồng thời phải rời xa tư cách
viên chức cũng tức là rời xa vị thế của một thiên sứ của giai đoạn văn học
trước. Cho dù vai trò này, như ta đã thấy, không còn mấy hào quang trong
một môi trường văn học mới nhưng sự từ bỏ nó một cách tự giác là không hề dễ
dàng. Vai trò hướng đạo của người cầm bút này không nên chỉ tính bằng 30 năm
của văn học kháng chiến và vệ quốc mà còn phải tính thêm vào đó quán tính của
1.000 năm văn chương theo truyền thống Nho giáo.
Tuy nhiên, dù ngần ngại và với phần lớn người cầm bút Việt Nam là không đủ bản lĩnh và năng lực văn hóa cần thiết để nhận biết về thân phận và diện mạo của mình, thì sớm muộn các nhà văn Việt Nam đều đang bị “trôi xa” khỏi khu vực quan phương và chính thống của đời sống xã hội. Họ cũng không còn là bộ phận tiên phong của bước tiến lịch sử nữa (vài trò này thuộc về những nhà doanh nghiệp). Chính trong vị thế này - cô đơn nhiều hơn, nhỏ bé hơn trong vị thế xã hội, thậm chí có nguy cơ bị dạt ra khu vực ngoại vi của đời sống xã hội - các nhà văn Việt Nam đương đại sẽ viết những tác phẩm của mình bằng một tâm thế mới: nhiều trải nghiệm hơn, nhiều bất an hơn nhưng chắc chắn là cũng sẽ nhiều thể nghiệm hơn. Bớt đi nhiều hào quang và những sứ mệnh, họ như cánh diều trong câu thơ của Nguyễn Huy Thiệp, bắt đầu cảm nhận được sự nhẹ tênh của cuộc đời để trở nên liều lĩnh hơn, ráo riết hơn trong những kiếm tìm của mình. Lẽ đương nhiên là một tâm thế như thế mới chỉ bắt đầu và với một tốc độ đòi hỏi rất nhiều sự kiên nhẫn từ phía những người quan sát và nghiên cứu.
Tuy nhiên, dù ngần ngại và với phần lớn người cầm bút Việt Nam là không đủ bản lĩnh và năng lực văn hóa cần thiết để nhận biết về thân phận và diện mạo của mình, thì sớm muộn các nhà văn Việt Nam đều đang bị “trôi xa” khỏi khu vực quan phương và chính thống của đời sống xã hội. Họ cũng không còn là bộ phận tiên phong của bước tiến lịch sử nữa (vài trò này thuộc về những nhà doanh nghiệp). Chính trong vị thế này - cô đơn nhiều hơn, nhỏ bé hơn trong vị thế xã hội, thậm chí có nguy cơ bị dạt ra khu vực ngoại vi của đời sống xã hội - các nhà văn Việt Nam đương đại sẽ viết những tác phẩm của mình bằng một tâm thế mới: nhiều trải nghiệm hơn, nhiều bất an hơn nhưng chắc chắn là cũng sẽ nhiều thể nghiệm hơn. Bớt đi nhiều hào quang và những sứ mệnh, họ như cánh diều trong câu thơ của Nguyễn Huy Thiệp, bắt đầu cảm nhận được sự nhẹ tênh của cuộc đời để trở nên liều lĩnh hơn, ráo riết hơn trong những kiếm tìm của mình. Lẽ đương nhiên là một tâm thế như thế mới chỉ bắt đầu và với một tốc độ đòi hỏi rất nhiều sự kiên nhẫn từ phía những người quan sát và nghiên cứu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét