Nghiên cứu trước tác của các tác giả văn học giao thời thấy
nổi lên hai đặc điểm cơ bản sau:
-số lượng các tác phẩm không
nhiều, không có những tác phẩm có giá trị kết tinh nghệ thuật ở trình độ cao.
-vì nhiều lý do khác nhau, không
có nhiều những nhà văn mà quá trình sáng tác kéo dài trong suốt giai đoạn văn
học. Có lẽ đây là những đặc điểm tất yếu của một nền văn học chưa thực sự được
chuyên nghiệp hóa như ở giai đoạn sau này.
Đặt trong tương quan ấy mới
thấy hết ý nghĩa văn học sử của hiện tượng Tản Đà. Cùng với Phan Bội Châu, sáng
tác của Tản Đà kéo dài trong hầu khắp giai đoạn giao thời. Cũng như Phan Bội
Châu, sáng tác của Tản Đà trải trên nhiều thể loại khác nhau. Cả hai, bằng
những cách thức khác nhau, dường như là sự kiểm tra, tổng duyệt lại năng lực
biểu đạt nghệ thuật của toàn bộ hệ thống thể loại văn học truyền thống trước
những đòi hỏi mới mẻ nảy sinh từ thực tiễn đời sống văn học. Điều này lý giải
vì sao trong tất cả các bộ văn học sử, cùng với Phan Bội Châu, Tản Đà luôn được
nhắc tới như một tác gia quan trọng của giai đoạn văn học giao thời. Mặt khác,
so với Phan Bội Châu, sáng tác của Tản Đà gắn chặt với môi trường đô thị - chịu
những tác động của thị hiếu độc giả trong một môi trường mà văn học đã trở
thành hàng hóa, viết văn trở thành một nghề với những trải nghiệm hoàn toàn mới
mẻ. Mọi miêu tả và phác thảo về lộ trình hiện đại hóa văn học đều không thể bỏ
qua sự hiện diện của Tản Đà với tư cách là điểm chuyển giao giữa truyền thống
và hiện đại. Tất cả những lý do trên khiến vị trí văn học sử của Tản Đà được
quyết định không phải chỉ bởi ông là một cá tính và tài năng nghệ thuật lớn mà
còn bởi từ cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Tản Đà người nghiên cứu có thể
tìm ra những vấn đề chung mang tính quy luật cho toàn bộ giai đoạn văn học này.
I.
Tiểu sử và con người
Tản
Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 25-5-1889 (20 tháng 4 năm Kỷ sửu,
Thành Thái nguyên niên) tại làng Khê thượng, huyện Bất bạt, tỉnh Sơn tây nay là
thôn Khê thượng, xã Sơn đà, huyện Ba vì - Hà tây. Nguyên quán của Tản Đà ở làng
Lủ (tức Kim Lũ) huyện Thanh trì - Hà Nội.
Dòng
họ của Tản Đà có truyền thống khoa bảng. Thân phụ của ông -Nguyễn Danh Kế đỗ cử
nhân, làm quan đến chức Án sát Ninh bình. Anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản
Đà là Nguyễn Tái Tích đỗ phó bảng, làm tri huyện sau đổi sang ngạch Học quan
giữ chức Giáo thụ.
Mẹ
Tản Đà là Nhữ Thị Nghiêm, một đào hát tài sắc Nam định, lấy lẽ Nguyễn Danh Kế
khi ông làm tri phủ Xuân Trường. Bà là người hát hay và có tài làm thơ Nôm. Tản
Đà là con trái út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này.
Cuộc
đời của Tản Đà trải nhiều khóc cười. Lên 3 tuổi, bố mất. Năm sau, vì bất hòa
với gia đình chồng, bà Nhữ Thị Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. Mặc dù ngay
từ khi 15 tuổi đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn tây nhưng Tản Đà liên
tiếp trượt cả hai kỳ thi hương 1909 và 1912. Cũng mùa xuân năm 1912, ông không
qua được kỳ thi vào trường Hậu bổ vì trượt môn vấn đáp tiếng Pháp. Thất bại
trong khoa cử gắn liền với đổ vỡ trong tình duyên đã khiến cuộc đời Tản Đà rẽ
sang một ngả khác.
Năm 1915, Tản Đà có tác phẩm đăng
trên Đông dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh và nhanh chóng có được tiếng
vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà và chính thức chọn con đường
của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Từ 1916 đến 1926 là những năm
tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Ông liên tiếp cho xuất bản các tác phẩm: Khối
tình con I(1916), Giấc mộng con I (1917), Khối tình con II
(1918), Đài gương, Đàn bà Tầu, Thần tiền, Lên sáu
(1919), Lên tám (1920), Còn chơi (1921), Tản Đà tùng văn
(1922), Thề non nước (1922), Truyện thế gian I và II (1923),
nhuận sắc Truyện Tỳ bà (tuồng) của Đoàn Tự Thuật và dịch Đại học
(1922), Kinh thi (1924).
Từ năm 1926 đến 1933 ngoài
việc xuất bản một số tác phẩm: Giấc mộng con II, Giấc mộng lớn
(1932) và in lại thơ văn cũ Tản Đà bỏ hết tâm sức vào việc làm báo với kỳ vọng
vào một sự nghiệp văn chương “có bóng mây hơi nước đến dân xã”. Sự lạc điệu
của nhà Nho Tản Đà với môi trường đô thị bắt đầu bộc lộ rõ rệt. Tờ An nam
tạp chí, bất chấp những tâm huyết của ông chủ báo ngất ngưởng, liên tục bị đình
bản vì lý do tài chính và đến năm 1933 (sau 6 lần tái bản rồi đình bản) thì đình
bản hẳn. Lần vấp ngã này khiến Tản Đà thực sự chán nản và sự nghiệp của ông
cũng đi vào giai đoạn thoái trào. Từ 1933 cho đến những ngày cuối đời Tản Đà
làm trợ bút cho các báo, dịch thơ Đường cho tờ Ngày nay, dịch Liêu
trai, quảng cáo chữa văn, xem số Hà lạc...Cũng vì sinh kế mà Tản Đà phải
trôi dạt nhiều nơi: vào Nam, ra Hà nội, về quê, ra Quảng Yên rồi lại về Hà Đông.
Ông mất tại Ngã tư Sở, ngày 7 tháng 6 năm 1939, trong cảnh bần bách, để lại vợ
và đàn con mà theo lời thuật của Nguyễn Tuân “vừa yếu lại vừa đuối”.
Cuộc đời của Tản Đà, như thế,
dù có những năm tháng đắc ý nhưng nhìn chung là bất như ý và nhiều đổ vỡ. Điều
này khiến Tản Đà (vốn đầy tự tín, ngông nghênh) phải đối diện với một cảm nhận
không ít mệt mỏi, chua xót: “Mỗi một phen ra đời lại một phen thất bại; mỗi
một phen thất bại, đầu tóc lại bạc thêm” (Giấc mộng lớn). Nỗi
sầu bàng bạc trong thơ văn Tản Đà một phần đến từ những trải nghiệm rất thực
này.
Tuy nhiên, dù phân nửa cuộc
đời sau này gắn bó với môi trường đô thị và tập nhiễm không ít lối sống thị dân
thì về cơ bản cốt cách của một nhà Nho tài tử vẫn rất đậm nét trong con người
Tản Đà. Trong một xã hội mà người ta đã học và làm quen được với sự sùng bái
đồng tiền Tản Đà trước sau vẫn chọn lối ứng xử của một khách chơi, một bậc
trượng phu đầy hào sảng, phóng túng: Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi / Bán áo mà mua giấy viết ngông (Dạm
bán áo đoạn), Bạc tiền gió thoảng thơ đầy túi / Danh lợi bèo
trôi, rượu nặng nai (Tự vịnh). Hoàn toàn không có sự khác
biệt giữa hình ảnh Tản Đà trong những câu thơ trên và Tản Đà ngoài đời. Sự
thống nhất ấy đã khiến Tản Đà, trong mắt của người đương thời và đặc biệt của những
kẻ hậu sinh, trở thành bậc trích tiên. Vô số những giai thoại về Tản Đà đều
xoay quanh cái cốt cách khác thường này của ông. Cùng với thơ ca, con người
thực của Tản Đà thực sự là một niềm say mê, ngưỡng mộ của nhiều thế hệ. Thậm
chí ngay cả khi những sáng tác của ông không còn sự hấp dẫn như buổi đầu xuất
hiện thì sự hấp dẫn đến từ con người thực của Tản Đà vẫn không hề giảm sút. Cá
tính độc đáo của Tản Đà còn tiếp tục vang bóng trong những giai thoại về Nguyễn
Tuân (người bạn vong niên mà sinh thời Tản Đà vốn có biệt nhãn) và nó khiến cho
Lưu Trọng Lư dù có lúc không ưa gì cái Tôi kềnh càng của Tản Đà trong đời thực
vẫn phải thừa nhận: “con người Nguyễn Khắc Hiếu chính là cái tác phẩm tuyệt
xảo, một bài thơ hay nhất trong sự nghiệp của Tản Đà”.
II. Kiểu nhà thơ giao thời: từ nhà Nho
trở thành người sáng tác chuyên nghiệp và quan niệm về văn học của Tản Đà.
1/1.1 Thừa hưởng truyền thống của gia đình,
Tản Đà ngay từ nhỏ, đã được rèn cặp theo lối học cử tử mà người thầy cũng đồng
thời là người anh ruột - phó bảng Nguyễn Tái Tích. Ảnh hưởng của Nho giáo với
Tản Đà, như thế, là một ảnh hưởng từ rất sớm và cũng rất tự nhiên như một nét
của gia phong. Chính vì thế, Tản Đà vào đời theo một lộ trình đã định trước và
cũng khá quen thuộc với một nhà Nho: học hành - đi thi - làm quan (trước để nối
nghiệp nhà và với Tản Đà còn có thêm một mục đích rất dễ thương: có được người đẹp
trong mộng). Chuyện trở thành nhà văn nhà báo chuyên nghiệp sau này trong cảm nhận
của Tản Đà là một sự lỡ dở: Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang / Nôm na phá
nghiệp kiếm ăn xoàng (Đề “Khối tình con” thứ nhất). Thực tế
này lý giải vì sao: trước năm 1913 không thấy phát lộ một khả năng cũng như
thiên hướng đặc biệt nào của Tản Đà về lĩnh vực sáng tác văn chương nghệ thuật.
Vốn liếng của Tản Đà thời kỳ này dù có xuất sắc hơn người thì chủ yếu vẫn chỉ
là chuyện chữ nghĩa đóng khung trong sách vở thánh hiền. Hiểu thế, mới có thể lý
giải được vì sao việc hỏng thi Hương năm 1912 lại khiến Tản Đà chán nản, bi
phẫn đến như thế. Ở thời gian này, lối học thi cử truyền thống đã đến hồi kết.
Ba năm sau, năm 1915, sẽ là khoa thi chữ Hán cuối cùng ở miền Bắc. Trước Tản Đà
không lâu, dù cay cú, dù than thở thì Tú Xương vẫn có thể trọn đời theo nghiệp
khoa cử. Đến Tản Đà, sự phá sản của lối vào đời truyền thống ấy đã trở thành
hiện thực nhãn tiền. Nhà Nho Tản Đà không còn đủ tự tin, cơ bản hơn, cũng không
còn đủ cơ hội để đánh cược vào khoa cử. Bị trượt ra khỏi quỹ đạo truyền thống,
hoàn toàn mất phương hướng trong hành xử đấy mới chính là nguyên nhân sâu xa
gây ra sự chán nản đến độ “quyết mong tịch cốc để từ trần” ở Tản Đà - mà
sự kiện “ý trung nhân xuất giá” chỉ là một giọt nước tràn ly.
1.2 Chính ở thời điểm này,
sáng tác văn chương xuất hiện như một phương thức để giải tỏa. Những sáng tác
này sau đó sẽ được in ở hai quyển Khối tình và Khối tình con thứ
nhất nhưng như Tản Đà đã thuật lại rất rõ: “trong khi đương viết ở Cổ đằng,
thực chưa có bụng nào viết văn để in vậy”. Tản Đà chỉ thực sự lựa chọn con đường
của một người kiếm sống bằng ngòi bút vào năm 1916. Đây là năm ông lấy bút hiệu
Tản Đà. Đặc biệt cũng trong năm này ông từ chối lời mời vào học mà không phải
qua thi tuyển của E.Vayrac giám đốc trường Hậu bổ. Ở điểm xuất phát không
được chuẩn bị và cũng không hề có ý định để trở thành nhà văn chuyên nghiệp, đến
với nghề văn khá muộn nhưng lại rất cương quyết và triệt để trong toàn bộ quãng
đời còn lại. Những nguyên nhân nào đã làm nên sự biến đổi đặc biệt quan
trọng này ở nhà Nho Tản Đà?
Trong nhận thức mang tính
tiên nghiệm của nhà Nho có ba điều cũng là ba lĩnh vực để có thể lưu danh thiên
cổ (tam bất hủ): lập đức, lập công và lập ngôn. Mãi cho đến cuối đời,
Phan Bội Châu vẫn nhắc lại tiên đề này. Sự tán thưởng với quan điểm lập thân
này cũng được Tản Đà công khai bày tỏ: “Đã gọi là thằng người phải có một cái
hơn con vật. Hoặc là cái đức hay, hoặc là cái việc hay, hoặc là câu nói hay”
(An nam tạp chí - số 8). Cốt cách tài tử lại thêm những pha tạp của lối
sống thị dân khiến Tản Đà không bị hấp dẫn bởi những khuôn mẫu của một nhà đạo đức.
Ở vào một thời đại mà văn minh phương Tây đã chứng tỏ sự ưu việt hơn hẳn của nó
thì ngả rẽ kỳ vọng vào một sự nghiệp kinh bang tế thế cũng trở nên mù mịt đối
với một nhà Nho phải “phá nghiệp kiếm ăn xoàng” như Tản Đà. Chỉ còn một
mảnh đất cuối cùng: mảnh đất của “lời nói hay” (lập ngôn) để Tản Đà có
thể thi thố với đời. Có không ít những nguyên cớ chủ quan và khách quan khuyến
khích Tản Đà theo ngả rẽ này. Từ sau những năm 1910, trên cơ sở của môi trường đô
thị hiện đại, viết văn làm báo đã trở thành một nghề. Tiếp sau những tờ công
báo là sự ra đời của báo chí tư nhân đáp ứng những nhu cầu và thị hiếu mới của
tầng lớp thị dân đang ngày một trở nên đông đảo. Danh phận của người viết văn
làm báo được thừa nhận và xem trọng. Đây là cơ sở để Phạm Quỳnh có thể tự tin
và hào hứng tuyên truyền cho luận điểm: “Các nước Âu Mỹ trọng các nhà văn sĩ
hơn các bậc đế vương vì cái công nghiệp tinh thần còn có giá trị quý báu và ảnh
hưởng sâu xa hơn là những sự nghiệp nhất thời về mặt chính trị”[1].
Cái không khí mới mẻ của thời cuộc ấy không phải là không có sức hấp dẫn. Thêm
nữa, ngay từ bài tản văn đầu tiên của mình in trên Đông dương tạp chí,
Tản Đà đã được tán thưởng đặc biệt đến mức ông chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh - với
tất cả sự nhạy bén về thị trường của một nhà báo chuyên nghiệp - đã phải mở và
dành riêng một mục cho Nguyễn Khắc Hiếu lấy tên là Một lối văn Nôm. Một
loạt những bài tản văn tiếp theo như: Cái chứa trong bụng người, Giá
ngày, Giá người, Giải sầu đưa lại cho Nguyễn Khắc Hiếu một địa
vị danh tiếng trong văn đàn. Những nguyên cớ trên lý giải vì sao Tản Đà đã mạnh
dạn để đến với văn học chuyên nghiệp một cách quyết liệt và triệt để đến thế -
một lựa chọn mà ngay cả những nhà văn ở giai đoạn 1932-1945 sau này không phải
ai cũng có được.
Thực tế này đã đem lại những
nét thật sự mới mẻ trong quan niệm về văn học của Tản Đà. Ngay từ năm 1916,
trong lời đề tựa cho tập Khối tình con thứ nhất, người ta đã bắt
gặp một chân dung và một tuyên ngôn cho sự tồn tại của một loại hình nhà văn mà
rồi đây sẽ chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống văn học:
Còn non còn nước còn trăng gió
Còn có thơ ca bán phố phường
Trong quan niệm truyền thống,
văn học là một thứ quà tặng để thù tạc. Điều này giải thích vì sao trong văn
học trung đại bất chấp một khối lượng lớn những tác phẩm được sáng tác thì
trong đời sống vẫn không có khái niệm thi sĩ, khái niệm nhà văn. Người ta gọi
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến...theo phẩm hàm, học vị.
Những danh hiệu đó dường như tôn quý hơn và cũng rộng lớn hơn danh hiệu thi sĩ.
Làm thơ không phải là một nghề, nó là một phần (được đề cao nhưng không bắt
buộc phải có) trong hoạt động sống của một ông quan, của một nhà khoa bảng.
Trong sự đối sánh ấy, cái tuyên ngôn về “thơ ca bán phố phường” của Tản
Đà là một sự khai sinh cho một danh phận mới: nhà văn chuyên nghiệp, cũng đồng thời nó đem đến cho văn học một
thuộc tính mới: thuộc tính hàng hóa.
Từ quan niệm mới mẻ về văn học này, Tản Đà sẽ tổng kết cuộc đời mình với tư
cách của một người: Khi làm chủ báo lúc viết mướn (Tiễn ông Công
lên chầu trời). Chỉ từ Tản Đà người ta mới bắt gặp những trải nghiệm
thật mới mẻ của một người viết văn với những điều kiện khắc nghiệt của thị
trường: Bao nhiêu củi nước mới thành văn/Được bán văn ra chết mấy lần/Ông
chủ nhà in in đã đắt/Lại ông hàng sách mấy mươi phân (Lo văn ế)
Với những mới mẻ trong cách
thế hành nghề cũng như trong tầng sâu quan niệm văn học như trên Tản Đà xứng đáng
được xem là người tiên phong trên con đường vận động từ lối viết văn làm thơ
của nhà Nho sang lối viết văn làm thơ của một nhà văn chuyên nghiệp.
2. Tuy nhiên con đường trở thành nhà văn
chuyên nghiệp của Tản Đà càng về sau càng trở nên quanh co và chung cuộc trở
thành dang dở.
2.1 Nhà văn chuyên nghiệp và
văn chương trở thành hàng hóa - những quan niệm mới mẻ này kéo theo nó một loạt
những hệ quả mà quan trọng nhất là tác động của người đọc đến sáng tác của nhà
văn. Tự nhìn nhận mình với chức phận: đem “thơ ca bán phố phường” một
cách tự nhiên những nhu cầu, thị hiếu của tầng lớp thị dân đã có những tác động
không nhỏ đến thực tế sáng tác của Tản Đà. Những tác phẩm xoay quanh đề tài du
ký, những câu chuyện tình ái với hình bóng của các giai nhân trong hầu hết
những sáng tác của ông cũng như những sầu muộn vẩn vơ trong các tập Khối
tình con...- một phần là xuất phát từ cá tính sáng tạo của Tản Đà nhưng mặt
khác cũng có sự gợi ý và kích thích từ phía môi trường của độc giả những thập
kỷ hai mươi trong môi trường đô thị. Dễ dàng nhìn thấy những tương đồng (ở
những mức độ đậm nhạt khác nhau) trong các đề tài và mô- tip nghệ thuật nói
trên giữa Tản Đà và một loạt những cây bút đương thời như: Nguyễn Bá Trác, Đoàn
Như Khuê, Phạm Quỳnh và muộn hơn một chút là Đông Hồ, Tương Phố, Hoàng Ngọc
Phách... Những tương đồng này cho thấy rất rõ đằng sau những sáng tác văn học
là những nhu cầu và thị hiếu mới của thời đại mà những người cầm bút một khi đã
đi vào con đường một nhà văn chuyên nghiệp ít nhiều đều chịu sự tác động và định
hướng của chúng.
2.2 Tuy nhiên, người ta còn
bắt gặp một cách hệ thống những quan niệm văn học của nhà Nho truyền thống - đóng
vai trò như một khung khổ định trước trong tư duy về văn học của Tản Đà.
Tản Đà là người tự tín và
thành thật. Ông tự khen thơ mình nhiều lần và tỏ ra đặc biệt tự hào về thi tài
của mình. Nhưng còn có một niềm tự hào khác - cũng là một chức phận mà Tản Đà
rất mực đề cao, xem đó như mục đích tối thượng cho hoạt động sáng tác của mình:
truyền bá thiên lương cho nhân loại (Hầu
trời). Chức phận này Tản Đà suốt đời chẳng bao giờ nguôi quên: Hai chữ
“thiên lương” thằng Hiếu nhớ/Dám mong
không phụ Trời trông mong (Tiễn ông Công lên chầu Trời). Quan
điểm đem văn chương phục vụ cho nhiệm vụ truyền bá thiên lương này, một lần
khác, được Tản Đà trình bày một cách khúc chiết và có lập luận chặt chẽ hơn qua
lời của Chu Kiều Oanh: “Văn chương có trọng giá, không phải là một sự đùa
vui trong ý thú, không phải là một sự đua vui trong phẩm bình, mà phải có bóng
mây hơi nước đến dân xã...Sao cho nhân tâm, phong tục được thuần chính, dân trí
tư tưởng được khai minh, là chức trách của ngòi bút đại văn gia”. Với cách
hiểu này văn chương được đề cao rất mực nhưng cái làm nên giá trị của văn
chương không phải ở tự thân văn chương mà ở chức năng giáo huấn, ở khả năng
khai minh, chính tâm cho xã hội - một sự tái hiện trọn vẹn cho mệnh đề “văn
dĩ tải đạo” quen thuộc của Nho gia.
Giai đoạn giao thời là sự đan
xen của hai hệ thống thể loại cũ - mới. Bên cạnh văn - thơ - phú - lục của
truyền thống còn là những thể loại mới có nguồn gốc từ phương Tây: truyện ngắn,
tiểu thuyết... Vấn đề không chỉ là sự phức tạp trong hệ thống thể loại, cơ bản
hơn, còn là sự phức tạp trong cách thức phân loại. Trong bài báo Chữ Nho với
chữ Quốc ngữ (1918), Phạm Quỳnh đề xuất quan điểm: “Văn có nhiều lối đã đành,
mà văn cũng có nhiều hạng”. Nhiều lối là sự khác biệt về thể loại, phong
cách. Nhiều hạng lại là sự phân biệt về tôn ty: cao - thấp, trên - dưới, khinh
- trọng. Phân chia các thể loại theo cả hai tiêu chí: nhiều lối và nhiều hạng
cũng là đặc điểm nổi bật trong quan niệm thể loại của Tản Đà mà tiêu biểu nhất
là trong bài Hầu Trời (1921):
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
..................
Hai quyển Khối tình văn thuyết lý
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu
thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Trong một loạt những cách gọi
tên trên thấy có sự phân loại theo lối: văn vần và văn
xuôi nhưng sự đối lập giữa văn thuyết lý và văn
chơi, văn vị đời và văn chơi là phân
loại theo thứ hạng. Mặc dù thành danh với Giấc mộng con nhưng trong
quan niệm của mình Tản Đà không xem trọng tiểu thuyết như tản văn. Sau này khi
giới thiệu Giấc mộng lớn, Tản Đà cũng giữ quan điểm này: “chẳng qua
là một cuốn văn chơi (TVT nhấn mạnh), tưởng cũng không quan hệ đến
những lời phẩm bình của các bậc đại nhã cao nhân vậy”. Văn vị đời - có bóng
mây hơi nước đến dân xã - mới là thể loại mà Tản Đà xem trọng. Ông khẳng định:
“Văn chương mà không được như các văn Lư Thoa, Lương Khải Siêu thời sự
nghiệp có đáng giá là mấy”. Đặt tâm tư học lực của mình vào tản văn chính
là một kỳ vọng của Tản Đà vào một sự nghiệp văn chương của Khang, Lương, Lư
Thoa - những hình mẫu cho hạng văn vị đời của ông.
Với những quan niệm về tính
chất và thể loại văn học như trên dễ hiểu là vì sao từ 1926 trở đi Tản Đà bỏ
hẳn những sáng tác thuộc hệ thống thể loại văn chơi để chuyển sang viết báo
tuyên truyền cho thuyết thiên lương, kỳ vọng vào một sự nghiệp văn chương giáo
hóa, chính nhân tâm, thuần phong tục. Oái oăm thay, lựa chọn này đã khiến ông
xa rời quỹ đạo của một nhà văn chuyên nghiệp để trở về với kiểu văn học nhà Nho
truyền thống. Áp lực từ phía thị hiếu của độc giả bị thay thế bởi những hành xử
quen thuộc trong sáng tác văn học truyền thống. Sự “lại giống” này (chữ dùng
của GS Trần Đình Hượu), như thực tế cho thấy, chẳng những khiến Tản Đà đánh mất
độc giả mà, cơ bản hơn, nó đồng thời làm mất đi nhu cầu và khả năng (vốn dĩ rất
dồi dào) tìm tòi đổi mới văn học theo hướng hiện đại trong những sáng tác ở
giai đoạn trước đó của ông. Là một trong những đại diện đầu tiên ở vào thời điểm
phôi thai của nền văn học mới cùng với không ít những hăm hở “phá cách vứt điệu
luật” nhưng hấp lực từ quan niệm văn học truyền thống đã khiến Tản Đà càng đi
càng trở nên bối rối, chậm bước để rồi trở lại với điểm xuất phát ban đầu. Quả
thực, không phải cứ có một quan niệm mới là có ngay những tác phẩm có giá trị
nhưng nếu không được định hướng từ một quan niệm văn học thực sự mới mẻ thì
ngay cả với một tài năng cỡ Tản Đà cũng khó có được khả năng và một xung lực
cần thiết cho những cách tân nghệ thuật đích thực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét