2.1 Tình dục
và sự cám dỗ sắc dục xuất hiện ngay từ buổi đầu phôi thai của nền văn học mới với
nhiều sắc thái cũng như những biến đổi phức tạp.
Đến thời điểm hiện tại,
tác phẩm đầu tiên mà chúng ta biết được có đề cập trực diện đến vấn đề tình dục
là Truyện nàng Hà Hương của Lê Hoằng
Mưu, khởi đăng trên báo Nông cổ mín đàm
(số 19, 20-7-1912)[1]. Do chỗ tác phẩm này chưa
được công bố rộng rãi nên trước khi đi vào phân tích chúng tôi xin được tóm tắt
những nét chính như sau: ở Bến Tre, có vợ chồng Trần Quế là người chân thật,
chăm chỉ làm ăn nên gây dựng được một gia sản lớn. Cạnh nhà Trần Quế, có bà đỡ
(bà mụ) tên Lưu. Bà Lưu có con gái là Liên lấy chồng là Thân. Vợ Trần Quế và
Liên đều có thai và sinh cùng ngày, đều là con gái. Bà Lưu muốn cháu mình sung
sướng nên đã đánh tráo cháu mình với con của Trần Quế. Cô con gái giả này tên
là Hà Hương sống với Trần Quế rất sung sướng. Cô con gái thật tên là Nguyệt Ba
sống ở nhà con gái bà Lưu trong cảnh lam lũ. Lớn lên Hà Hương vì được cưng chiều
nên chỉ lo ăn diện.
Cùng làng có Đậu Nghĩa
Sơn - một gia đình khá giả, có con trai là Nghĩa Hữu - là một thanh niên chỉ mải
chuyện lầu xanh, cờ bạc. Nghĩa Sơn muốn con trai tu tỉnh nên tìm cách lấy vợ
cho Nghĩa Hữu. Thấy gia cảnh nhà Trần Quế, Nghĩa Sơn hỏi Hà Hương cho Nghĩa Hữu.
Trần Quế ưng thuận. Hà Hương về làm dâu nhưng vẫn quen thói buông tuồng. Khi
hai vợ chồng ra ở riêng, Hà Hương sinh thói cờ bạc. Nghĩa Hữu về nói với cha mẹ.
Vợ chồng Nghĩa Sơn bỏ ra 2000 đồng làm điều kiện để Hà Hương bỏ chồng. Hà Hương
ưng thuận ngay. Lấy tiền mua một cái nhà ở chợ, ngày đêm cờ bạc.
Vợ chồng Nghĩa Sơn bèn hỏi
Nguyệt Ba cho Nghĩa Hữu. Bà Lưu lúc này mới nói thật với con gái tìm cách ngăn
cản Nguyệt Ba và Nghĩa Hữu lấy nhau nhưng không được. Cuối cùng bà Lưu phải nói
thật với Hà Hương. Hà Hương biết chuyện sinh phiền muộn tìm cách chiếm lại
Nghĩa Hữu.
Về phần Nghĩa Hữu tuy lấy
Nguyệt Ba nhưng vẫn tơ tưởng đến Hà Hương. Cả hai sau đó lén lút qua lại với
nhau. Sau này, Hà Hương tìm cách hại Nguyệt Ba: đánh thuốc mê, cho lên một thuyền
buôn chở đi mất dạng. Nghĩa Hữu biết chuyện nhưng vẫn không dứt bỏ được Hà
Hương. Nguyệt Ba sinh con trai, nhờ sự giúp đỡ của một lái buôn là Ó nên tìm đường
trở về tìm chồng.
Không phải đến Hà Hương phong nguyệt (HHPN) văn học Việt Nam mới biết đến những
miêu tả tình dục. Dù không thật sự đậm nét và tạo thành một bộ phận độc lập như
ở Trung Quốc và Nhật Bản nhưng cả trong dòng văn học viết bằng chữ Hán (với Hoa viên kì ngộ) và chữ Nôm (với Song Tinh) trước đó đều đã xuất hiện tác phẩm đề cập đến tình dục với
những miêu tả cận cảnh và khá chi tiết. Về phương diện này thì những miêu tả
trong HHPN còn xa mới so sánh được với
những tác phẩm đã nêu. Tuy nhiên, sự phê phán (mà ngày nay chúng ta dễ dàng nhận
thấy là thái quá) của người đọc đương thời với tác phẩm này là xuất phát từ một
nguyên nhân có thể lí giải được: HHPN
có những yếu tố “lệch chuẩn” so với truyền thống tiếp nhận.
Trong các tác phẩm truyền
thống đứng ở trung tâm là giai nhân với vẻ đẹp chẳng những trong tài mạo mà cả
trong phẩm cách. Nhân vật Hà Hương trong tác phẩm tuy xinh đẹp, biết làm thơ
nhưng không phải là nhân vật lí tưởng, không phải là một giai nhân như trong
truyền thống. Nhân vật này được miêu tả với quá nhiều những nét phản diện: đua
đòi, cờ bạc, chủ động dùng nhan sắc của mình
để quyến rũ Hữu Nghĩa, âm mưu ám hại Nguyệt Ba.
Vai trò nhân vật nữ lí tưởng
trong tác phẩm là thuộc về Nguyệt Ba. Trong tác phẩm, bên cạnh miêu tả nhan sắc
của Nguyệt Ba, tác giả luôn nhấn mạnh sự hiếu thuận, đoan trang của Nguyệt Ba
như một sự tương phản với Hà Hương: “Nó giống con Hà Hương cho tới tướng đi, tướng
đứng, giống cho đến giọng nói, giọng cười, nhan sắc cũng bằng nhau mà khác bề
ăn nết ở”. Tuy thế, và điều này là đặc biệt quan trọng, người làm cho Nghĩa Hữu say mê lại không phải là Nguyệt Ba mà là Hà
Hương. Nhân vật Nghĩa Hữu cũng không phải là nhân vật tài tử hay trượng phu
trong văn học truyền thống. Nhân vật này luôn được miêu tả như một nhân vật có
nhiều thuộc tính xấu: chỉ thích nơi lầu xanh, chơi bời. Cuộc tình của anh ta với
Hà Hương luôn chỉ được miêu tả như những hưởng thụ sắc dục thuần túy: “Hà Hương
thêm núng má hồng, Nghĩa Hữu càng trông càng khoái. Thương quá nên hóa dại,
không nói được một lời, ôm vợ mà hun dường như bướm lại với hoa”. Khi Nguyệt Ba
bị hại, Nghĩa Hữu phần nào đoán ra là do Hà Hương gây ra nhưng hoàn toàn bị cuốn trong sự say mê sắc dục: “Hữu
mà thấy Hương như đói thấy cơm, nào tưởng việc trả hờn cho vợ. Bước vào hăm hở,
Hà Hương mừng tở mở ôm hun (...) Mặt Hữu coi
lơ láo, bị hun có một cái mà bủn rủn tay chân quên ráo việc nhà”.
Sự hấp dẫn của Hà Hương đối
với Nghĩa Hữu là khá khó hiểu khi được nhìn từ truyền thống, bởi vì Nguyệt Ba
trong tác phẩm cũng là một người tài sắc vẹn toàn. Chính từ khía cạnh này mà
nhân vật nữ Hà Hương bắt đầu hiện lên với một kiểu nhân vật chưa từng có trong
truyền thống của văn học Việt: kiểu nhân vật biểu tượng cho sự cám dỗ sắc dục.
Trong tác phẩm, vẻ đẹp Nguyệt Ba chỉ được nói đến một cách mơ hồ trong khi đó vẻ
đẹp thân xác của Hà Hương luôn được nhấn mạnh. Thêm vào đó nhân vật này được
miêu tả trong khả năng hấp dẫn khó cưỡng với những cưng chiều, ve vuốt - điều rất
khó xuất hiện ở một nhân vật nữ đoan trang hiền thục theo quan niệm truyền thống.
Đây là cảnh chia tay của Nghĩa Hữu với Hà Hương:
“Trời
đà hửng sáng, Hữu vội vàng giã bạn ra về, Hà Hương bước lại đứng kề, ôm Hữu vuốt
ve nựng nịu, mũi thì hun, miệng thì biểu mình ở lại đây chút xíu nữa sẽ đi.
Nghĩ lại thiệt kì lạ, giống son phấn muốn
gì cũng được, sợ trễ việc nhà muốn bước, sóng khuynh thành xô ngược lộn vô”.
Một thứ tình ái như thế,
khi được tô đậm trong tác phẩm rõ ràng là trái với truyền thống tiếp nhận. Cần
lưu ý là mặc dù Nguyệt Ba là nhân vật chính diện nhưng Hà Hương mới là nhân vật
chính trong ý đồ sáng tác của Lê Hoằng Mưu. Cả trong bản in báo cũng như bản in
thành sách thì Hà Hương luôn được lấy làm tên truyện. Đưa một nhân vật phản diện
làm nhân vật chính, tô đậm những sắc thái của một thứ tình yêu quay lưng với đạo
lý, chạy theo những hấp dẫn của xác thịt thuần túy - đây mới là nguyên nhân
chính khiến cho HHPN bị dư luận lên
án mạnh mẽ chứ không vì những đoạn miêu tả sắc dục (còn khá mờ nhạt) trong tác
phẩm này. Điều này cho thấy: tính dục, trong văn học truyền thống, chủ yếu
được nhìn nhận, đánh giá trong từ trường của diễn ngôn đạo đức.
Sự quan tâm đến những cám
dỗ sắc dục là một chủ đề khá nhất quán trong sáng tác của Lê Hoằng Mưu. Ta sẽ bắt
gặp lại chủ đề này với những biểu hiện đặc biệt sâu đậm trong Người bán ngọc[2].
Nhân vật Tô Thường Hậu, một thương nhân, ngay khi gặp Hồ phu nhân đã lập tức nảy
sinh tình ý. Không phải nhân vật không biết đến sự ngăn trở của đạo lí nhưng sự
quyến rũ của ái tình còn mạnh hơn: “chàng xét biết phận mình làm trai, phải đối
với gái có chồng cách nào mà xa lánh; nhưng bởi cái nết hồng nhan không thuốc
mà mê”[3].
Đặc biệt đoạn miêu tả Tô Thường
Hậu chiếm đoạt Hồ phu nhân trong đêm được khắc họa đặc biệt sinh động. Lúc này,
Hồ phu nhân vì nhầm tưởng Tô là phụ nữ nên cho cùng giường mà ngủ. Hồ phu nhân
vì uống rượu say nên ngủ thiếp đi. Họ Tô thì vẫn tỉnh táo như thường lại được cận
kề mỹ nhân nên lòng dục nổi lên. Bên cạnh đó sự sợ hãi và lí trí lại xuất hiện
như một sự kiềm giữ. Một sự giao tranh đặc biệt gay cấn được diễn tả trong hàng
chục trang sách giữa một bên là “lương tâm thì muốn bỏ, mà cái lòng tà dâm lại
chẳng chịu buông”[4]. Trong cuộc giao tranh
này, sự bất lực của lý trí, lương tâm được ghi nhận nhiều lần: “Ấy cũng bởi cái
tình sắc dục của người đời, sức mạnh dường sóng gió; người cứng cỏi cách nào nó
xô cũng ngã”[5]; “Vẫn biết lòng tà dâm mạnh
hơn sức người, nên người dẫu bực nào vương tới nó rồi cũng khó mà cượng nổi”;
“Nhưng bởi sức tà dâm nó mạnh hơn lương tâm, nó ép uổng người phải theo, dẫu rằng
thấy gươm treo trước mặt, cái chết sau lưng cũng không ghê gớm. Cho nên khi người
xiêu theo tà tâm, nhất định chẳng bỏ qua tình tệ, người dám buông lời thầm nói
rằng: ‘Gối chung đầu dầu có thác, dạ cũng vui’. Thế thì lương tâm nào còn theo
mà cản đãng nữa đặng”[6]. Nhìn
chung, tình dục dưới ngòi bút của Lê Hoằng Mưu bắt đầu được nhận diện trong thuộc
tính quyến rũ nhục dục rất khó cưỡng lại của nó.
Sự quan tâm đến sự cám dỗ
sắc dục, như thế, là nổi bật ở Lê Hoằng Mưu nhưng đây không chỉ là vấn đề phong
cách của tác giả mà còn là nét chung cho dòng văn học tình dục gắn với môi trường
đô thị. Điều này không phải là một võ đoán khi chúng ta tìm hiểu về nguồn gốc của
tác phẩm. Theo chính Lê Hoằng Mưu tự nhận: "Tiểu thuyết
Hoan hỉ kỳ oan này chẳng trọn ở tôi bày đặt. Trừ các bộ tiểu thuyết ở
tôi làm ra, truyện này vẫn là tiểu thuyết kim thời của Trung Huê cách mạng”[7].
Tuy nhiên, gốc tích xa hơn của truyện này lại là truyện “Hương Thái Căn cải
trang gian dâm mệnh phụ” (HTC) nằm
trong bộ truyện Tham hoan báo do Tây
Hồ Ngư Ẩn chủ nhân đời Minh viết. Sách vốn có tên là Hoan hỉ oan gia (chi tiết này ứng với tên truyện ban đầu của Người bán ngọc (NBN) khi được khởi đăng trên báo là Hoan hỉ kì oan), đời Thanh đổi tên thành Tham hoan báo. Lai lịch và cốt truyện HTC đã được Phạm Tú Châu công bố trên Tạp chí Hán Nôm, số 3, 1999[8].
Chúng tôi đã được bà Phạm Tú Châu cho phép tiếp xúc với bản dịch đầy đủ. Tiến
hành đối chiếu với NBN của Lê Hoằng
Mưu thì thấy có sự trùng hợp gần như tuyệt đối về cốt truyện, chỉ khác tên nhân
vật. Từ đó có thể giả định rằng truyện HTC
đã được sống lại dưới một hình hài khác theo kiểu “cố sự tân biên” trong
văn học Trung Quốc đương thời, từ đó được Lê Hoằng Mưu tiếp nhận và phóng tác.
Dù thế nào chăng nữa thì căn rễ của tác phẩm cho thấy nó thuộc về dòng văn học sắc
dục vốn rất đậm nét trong các đô thị Trung Quốc từ thời Minh trở đi và càng trở
nên nồng đậm khi tiếp xúc với những ảnh hưởng của phương Tây đầu thế kỷ. Sự tiếp
nhận và phóng tác của Lê Hoằng Mưu, vì thế, là xuất phát từ sự tương đồng của
dòng văn học tình dục trong văn học đô thị. Vậy nên, sự quyến rũ nhục dục xuất
hiện trong văn học Việt Nam thời kì này là một hiện tượng phù hợp với tính chất
của một nền văn học đô thị.
2.2 Luận đề về sự cám
dỗ sắc dục được láy lại một cách đậm đặc trong Hà Hương hoa nguyệt[9] (HHHN) của Nam Tùng Tử. Câu chuyện kể về
một cô gái cũng có tên là Hà Hương, con quan chủ quận, có đi học trường Tây, có
chồng là con trai một viên quan huyện nhưng do không có tình yêu nên trốn nhà
lên Sài Gòn. Ở đây cô ta lúc đầu rơi vào và sau đó là chủ động đến với những cuộc
hoan lạc. Càng hư hỏng cô ta càng xinh đẹp và có sức hấp dẫn càng lớn với đàn
ông. Khác hẳn với HHPN, ở tác phẩm
này các cảnh làm tình được miêu tả một cách trực tiếp, rất chi tiết, có khi kéo
dài đến mấy trang sách. Không chỉ có các động tác mà cả những ngôn ngữ trong
phòng the cũng được tái hiện. Con đường đến với tình dục của nữ nhân vật trong
truyện rất dễ dãi còn các nhân vật nam chỉ còn là những kẻ ham hố sắc dục một
cách thảm hại. Ngay cả những nhân vật vốn xuất hiện trong dáng dấp của nhân vật
hiệp nghĩa như Thanh Tòng cũng đầu hàng trước sự hấp dẫn từ nhan sắc của Hà
Hương. Từ chỗ nhận trách nhiệm trả thù anh ta trở thành người bảo vệ bí mật cho
Hà Hương và vì ghen tuông mà gây ra án mạng ở phần kết tác phẩm.
Đến đây xuất hiện một câu hỏi: ý nghĩa của miêu tả tình dục trong những tác
phẩm trên là gì? Vì sao lại có sự trùng hợp trong cách đặt tên cho nhân vật nữ
(cùng có tên là Hà Hương) và ngay cả tên của tác phẩm dường như cũng là sự láy
lại có chủ ý nhan đề tác phẩm trước đó của Lê Hoằng Mưu (từ phong nguyệt được đổi thành hoa nguyệt)? Có một sự vang hưởng, một sự
tiếp nối nào không giữa hai tác phẩm này?
Trước tiên, một cách khách quan, dưới ngòi bút của Lê Hoằng Mưu và Nam Tùng
Tử sự hấp dẫn của dục tính dường như đã
“chia tay” với vẻ đẹp của đạo đức, tiết hạnh. Điều này cho thấy, trong văn
học thời kì này, một ấn tượng rõ nét về sức mạnh cám dỗ của sắc dục. Nó mở ra một
cách tiếp cận con người từ góc độ bản năng, từ đó làm hiện lên bản chất dễ sa
ngã của nó trước dục vọng của xác thịt. Đây có thể xem là một phát hiện mới mẻ
so với những diễn ngôn về tình dục trong văn học truyền thống.
Cách tiếp cận này, như thế, có thể có những hàm nghĩa xã hội, có thể tiềm ẩn
một sự xung đột giá trị, hoặc để ngỏ những triết lí về con người ở một mức độ
nhất định nào đó – những
tiền đề cần thiết cho sự xuất hiện một diễn ngôn mới về tính dục. Tuy
nhiên, cái cách Lê Hoằng Mưu nói về tác phẩm của mình:
“Tôi khởi đầu viết bộ HHPN. Hay dở tự người xem, tôi mô dám biết. Viết ra từ mười năm
không ai nói chi. Sau này trong phe viết báo lắm kẻ người ưa đọc sanh lòng ganh
gổ, kích bác; mà không nói hay dở gì, chỉ thích điều lả lơi phong nguyệt. Tôi
mĩm cười! Cười mấy ông này mắt mang kiếng đen, chưa hề có xem phong nguyệt của
người các nước, còn lả lơi quá mười của tôi. Tôi thầm nghĩ nếu phong hóa vì tiểu
thuyết tình tự lả lơi mà ra thì phong hóa các nước suy đồi biết mấy”[10]
khiến chúng tôi
cho rằng ông đã miêu tả nó bằng một thái độ tương đối hồn nhiên. Ngay như khi
phóng tác NBN thì lí do của Lê Hoằng
Mưu cũng chỉ là: “Nhưng bởi trong có nhiều khúc chiết éo le, lại cũng có vay trả
nhãn tiền và có thói tục đàn bà. Nên muốn có tiểu thuyết khác ý tôi viết để độc
giả mua vui trong canh vắng tôi mượn tạm bộ tiểu thuyết này chế giảm và sửa
tình cảnh lại chút ít hiến chư tôn nhàn duyệt”[11].
Có lẽ, với Lê Hoằng Mưu, đặc biệt trong HHPN,
thì phong nguyệt chỉ đơn giản là phong nguyệt, ông chưa thật sự nhìn thấy ở tính dục những chiều kích xã hội phức tạp.
Cách viết của ông về tình dục xuất phát từ một sự hiếu lạ trong đề tài (một đặc điểm của tính thị trường trong
văn học) hơn là muốn tìm
thấy ở đó một hệ giá trị mới, một diễn ngôn mới. Những
ý nghĩa xã hội - văn hóa của tình dục mới chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, có tính
chất “âm bản” chứ chưa thực sự được nhà văn ý thức khai thác.
Tính chất thị trường càng
được thể hiện đặc biệt đậm nét trong HHHN.
Về vấn đề này có hai điểm cần lưu ý: thứ
nhất, bút danh Nam Tùng Tử cũng chỉ xuất hiện một lần duy nhất với tác phẩm
này. Tác giả muốn né tránh búa rìu của dư luận và ngay từ đầu đã không muốn lưu
danh mình với một tác phẩm thứ cấp? Ở giữa q.7 có một lời chú: “Truyện này là bộ
truyện Hoa - Nguyệt, cấm đàn bà con gái không nên xem, viết nốt cho trọn bộ, từ
quyển 7 đến chót là tác giả khác”. Lời chú trên cho thấy người viết ý thức rất
rõ về tính “ngoài luồng” của tác phẩm và không thật mặn mà với việc theo đuổi
nó đến cùng. Thứ hai, tác phẩm do hiệu
Phạm Văn Thình xuất bản. Căn cứ vào những quảng cáo được đính trong các tập
sách ta biết chắc đây là một hiệu buôn chuyên bán buôn các đồ về văn phòng và đặc
biệt là các đồ trang điểm, thời trang. Việc đề cập trực diện đến các hoạt động
tình dục trong tác phẩm vì thế có lẽ nằm trong ý đồ hấp dẫn độc giả qua đó phục
vụ cho việc quảng cáo cho thương hiệu của hiệu buôn nhiều hơn là mục đích văn
chương. Xem danh mục sách do hiệu buôn này ấn hành với một loạt những ấn phẩm
như: Máu ghen, Tơ tình vương vấn, Tuyết sạch
giá trong, Mảnh Hoa Đào, Tơ Hồng trớ trêu, Nát ngọc tan vàng, Duyên xưa nghĩa
cũ, Trăng tủi hoa sầu, Giọt lệ má đào, Thói đời phụ bạc, Lửa tình... ta dễ
thấy HHHN chỉ là một trong chuỗi những
tác phẩm có chung một khuynh hướng. Chỉ khác là, ở HHHN nhà xuất bản và tác giả đã khéo léo mượn nhan đề tác phẩm của
Lê Hoằng Mưu (trước đó đã gây nên sự chú ý đặc biệt với những tranh luận trên
báo giới) để tăng thêm sự hấp dẫn với độc giả. Tình dục trong tác phẩm này, vì
thế, như chúng tôi đã đề cập đến ở mục trước, được qui chiếu đến quyền lực của người mua trong khung cảnh
mà văn học đã trở thành hàng hóa.
Tóm lại trong những tác
phẩm đã dẫn trên, người ta thấy tính dục đã được khắc họa trong những chất liệu
mới nhưng chưa hình thành nên một diễn ngôn mới. Chính vì thế, mặc dù những chất
liệu của tính dục được miêu tả trong các tác phẩm không còn thu hẹp ở diễn ngôn
đạo đức nhưng vì chưa được tổ chức lại trong một diễn ngôn mới nên chúng vẫn phải
gượng gạo dùng đến cái khung của diễn ngôn đạo đức (cả hai nhân vật trong NBN đều
bị trả giá cho sự buông phóng theo sắc dục; một vài lời phê phán đạo đức được
nói đến một cách ước lệ và qua quít, mang tính công thức trong phần kết của
HHHN). Thực tế này cho thấy: tính dục không bao giờ chỉ là tính dục, nó dứt
khoát phải xuất hiện trong từ trường của một diễn ngôn nào đó. Cách tiếp cận
tính dục trong các tác phẩm dẫn trên cho thấy diễn ngôn đạo đức đã bắt đầu chật
hẹp nhưng tự thân văn học đại chúng chưa có khả
năng để kiến tạo một diễn ngôn mới về tính dục.
2.3 Một diễn ngôn mới về tính dục chỉ được
nhận thấy rõ nét với Đời mưa
gió của Nhất Linh và Khái Hưng.
2.3.1 Có một điều
hết sức thú vị là trong tác phẩm của hai cây bút trụ cột trong Tự Lực Văn Đoàn
này xuất hiện rất nhiều những tương đồng trong cách tổ chức cốt truyện và xây dựng
nhân vật với HHPN và HHHN cho dù ta không tìm thấy bất kì một
tư liệu nào cho thấy giữa chúng có một mối quan hệ ảnh hưởng. (Một sự tương đồng
trong “vô thức” như thế, nếu có, cho ta thấy rõ hơn bao giờ hết cái khung sự kiện
phổ biến của những tiểu thuyết về tình dục trong văn học thời kì này. Quan trọng
hơn, đây sẽ là một tiêu bản để ta nhận biết về một
diễn ngôn mới về tính dục trong văn học đã được tạo lập như thế nào).
Nếu như Hà Hương - tên của hai nhân vật nữ - được lấy làm nhan đề cho tác
phẩm thì Đời mưa gió cũng là một ám
chỉ trực tiếp đến Tuyết (nhân vật nữ chính của tác phẩm).
Nếu như Hà Hương trong HHHN không tìm thấy hạnh phúc trong hôn
nhân nên đã bỏ nhà lên Sài Gòn thì đấy cũng là lí do để Tuyết dấn thân vào con
đường của một gái giang hồ.
Nếu như Nghĩa Hữu trong HHPN có
hai sự lựa chọn: Nguyệt Ba và Hà Hương thì Chương trong Đời mưa gió cũng được đặt trước hai sự lựa chọn giữa Thu và Tuyết.
Hai cặp nữ nhân vật này hoàn toàn tương đồng với nhau trong tính cách cũng như
vai trò nghệ thuật mà nó đảm nhiệm trong tác phẩm. Giống như Nguyệt Ba, Thu
trong Đời mưa gió là một cô gái xinh
đẹp và nền nã, gia giáo. Mắt Thu “dịu dàng”, “đen láy”, “những ngón tay ngọc
ngà”. Tình yêu thầm kín mà nàng dành cho Chương hoàn toàn thanh sạch và hợp với
lễ giáo. Sự gặp gỡ của họ luôn diễn ra dưới cặp mắt dám sát của bà mẹ. Chỉ có một
lần duy nhất nàng đã mạnh dạn nói chuyện với Chương ở cổng nhà chàng nhưng vẫn
được “bọc” trong một lí do hoàn toàn ngẫu
nhiên: ra chỗ đợi xe điện nên tình cờ đi qua nhà Chương. Nàng yêu Chương không
phải vì thói trưởng giả và tiền bạc vì về những điểm này Chương không thể so
sánh với Khiết (một quan huyện) và Đoàn (một ông Tham) - những người đàn ông
cũng đang theo đuổi Thu. Tình yêu của Thu với Chương cũng không hề nhu nhược.
Vì yêu Chương nên Thu đã cương quyết không theo lời mẹ nhận lời với Khiết. Điều
này buộc cậu ruột của nàng, vì chiều ý cháu, đã phải chủ động tìm Chương để ướm
lời. Trong khi đó Tuyết sẽ giữ vai trò của Hà Hương. Nếu như Hà Hương là người
chủ động gửi thư và quyến rũ Hữu Nghĩa thì Tuyết cũng là người đã chủ động đến
với Chương, quyến rũ chàng như một cách để thách thức với tình yêu của Thu.
Và cuối cùng, cũng như Nghĩa Hữu say mê Hà Hương, Chương đã bỏ qua Thu - một
tình yêu mà chàng đã có trong tầm tay để chạy theo Tuyết.
Chỉ khác có một điểm, và đây là điểm then chốt nhất để hoán cải toàn bộ thế
giới nghệ thuật của Đời mưa gió đem lại cho nó một khác biệt về chất: Chương không phải
là một kẻ hư hỏng như Hữu, không phải là một thương nhân si tình và ham lạc thú
như Tô Thường Hậu. Chàng là một người hoàn toàn mô phạm: một ông giáo. Thậm chí
trong tác phẩm, khi câu chuyện bắt đầu, Chương (sau đổ vỡ của tình yêu đầu) được
mô tả trong cái nhìn của mọi người là “một người ghét phụ nữ” với biệt danh
“nan du” (khó giao du, kết bạn). Ngay cả Chương cũng tin mình là một người như
thế. Tất cả những miêu tả đều hướng tới khắc họa và tô đậm Chương như một biểu
tượng của con người luân lí, một con người không thể bị sa ngã trước hấp dẫn của
sắc dục. Và cũng chính vì thế cuộc tình tay ba của Chương - Thu - Tuyết là một
sự giao tranh giữa luân lí và tình ái; giữa xác thịt, nhục cảm và tình yêu đoan
chính. Thu và Tuyết là những cửa sổ để Chương nhìn vào đáy sâu trong lòng mình.
Đã có lúc Chương tự hỏi về mình: “Hay trái tim ta là một ngọn núi lửa thực? Ta
tưởng nó tắt hẳn rồi, nhưng có lẽ nó chỉ nghỉ tạm ít lâu đó thôi”[12]. Tình
yêu của Thu đã làm sống dậy những ngọn lửa thanh sạch êm đẹp. Nhưng chỉ có Tuyết
mới giúp Chương nhìn thấy ngọn lửa đầy sức mạnh tăm tối của lòng mình. Oái oăm
thay, ngọn lửa của bản năng ấy đã làm nhạt nhẽo và biến mất hẳn ngọn lửa từ
tình yêu đã được lẽ phải và luân lí của Thu phê duyệt.
2.3.2 Tuyết là
biểu tượng cho vùng tối, cho vực thẳm của những thèm muốn sắc dục trong con người
Chương mà chàng không hề biết đến trước đó. Sống quen với những tín niệm luân
lí của mình, tình yêu với những cô gái gia giáo như Thu khiến Chương không có
cơ hội để tiếp xúc với phương diện khuất lấp ấy của mình. Chính vì thế, chàng hầu
như bị tước đoạt mọi sự tự chủ khi vẻ đẹp sắc dục của Tuyết ập đến. Ngay từ lần
đầu khi Tuyết đến nhà Chương, vẻ đẹp sắc dục là cảm nhận đầu tiên mà Chương nhận
thấy ở người con gái giang hồ “Cặp môi bôi sáp hình trái tim nhách một nụ cười
làm hai lúm đồng tiền ở hai bên má mơn mởn như tuyết trái đào Lạng Sơn hồng mới
hái”[13] - một
rung động trước vẻ đẹp thân xác quyến rũ mà trước đấy chưa bao giờ Chương có ở
Thu. Đến lần gặp thứ hai, Chương thấy khó chịu nhưng không phải với Tuyết mà là
với chính bản thân mình:
“Xưa nay chàng vẫn là một người quả quyết, có khi quả
quyết quá hóa bướng bỉnh. Thế mà đối với Tuyết, chàng bỗng trở nên do dự, nhu
nhược (...), chàng lẩm bẩm: ‘Được! Chờ lát nữa cô ta lên, ta sẽ không nể nang
chút nào, không tiếc một lời nào nữa’. Hình như để được mạnh bạo thêm lên,
Chương nắm chặt tay đấm mạnh xuống bàn, nói lớn: ‘Không thể này được’[14]”.
Định là thế nhưng Chương lại đi soi gương, chỉnh lại trang phục, tự trách
mình vì đã để tóc qua dài và cũng đồng thời nhận ra vẻ đẹp “tình tứ” ở mình - một
vẻ đẹp đã được sự có mặt của Tuyết đánh thức. Và khi Tuyết dọn đồ ăn lên:
“Chàng nghĩ thầm: ‘Ta hãy cứ để vậy xem hắn còn làm những trò gì’
Câu nghĩ thầm chỉ là để chữa thẹn cho mình. Kì thực,
Chương không còn đủ nghị lực, không còn đủ lòng quả quyết để đuổi Tuyết ra như
hôm trước. Tâm chí chàng như bị cử chỉ và ngôn ngữ kì khôi của Tuyết huyễn hoặc
tựa như con chim con bị cặp mắt li ti của con rắn thôi miên làm cho không thể
nhúc nhích”[15].
Việc so sánh sức hấp dẫn của Tuyết với đôi mắt của một con rắn là không ngẫu
nhiên. Trong tâm thức của người Việt, con rắn chưa bao giờ là biểu tượng cho sự
lãng mạn, trong trắng, cho cái đẹp, cho sự an toàn. Với biểu tượng này, rõ ràng
Nhất Linh và Khái Hưng muốn ám chỉ sự nguy hiểm và tăm tối ẩn nấp trong sự hấp
dẫn sắc dục ở Tuyết. Đỉnh điểm của sự hấp dẫn này và cũng là sự đầu hàng của
Chương sẽ là cảnh:
“Tuyết đưa mắt liếc Chương một cái rất tình. Nhưng
Chương vẫn ngồi ở bàn giấy, không nhúc nhích. Nàng lại gần lấy tay quàng vai
Chương nũng nịu, nằn nì:
- Đi,
anh! Chóng ngoan, đi! Chóng em yêu, đi... Đừng khó bảo thế em giận, tội nghiệp!
Chương
như điên như cuồng, trong lòng như nước sôi, như lửa cháy. Bỗng chàng ẩy Tuyết
ra, trừng trừng nhìn, vẻ mặt sợ hãi, lo lắng. Tuyết hai má đỏ hây. Mái tóc hơi
rối, hai lọn tóc mai vòng vòng như hai cái dấu hỏi đen láy ở hai bên thái dương
trắng bông. Nàng lim dim cặp mắt nháy Chương:
- Đấy,
anh coi, anh không yêu em sao được?”[16].
Trạng thái “sợ hãi lo lắng”
của Chương ở đây, không gì khác, chính là sự hoảng sợ của con người luân lí thường
ngày khi phải đối diện với con người của nhục dục và xác thịt trong chính mình.
Nhận ra - hoảng sợ - và ngay lập tức đầu hàng. Chương để mặc mình cho sự sai
khiến của Tuyết: “Vừa nói nàng kéo Chương lại bàn ăn. Chương như người mất linh
hồn, Tuyết lôi đi đâu thì đi đấy”[17].
Trong suốt những trang sách còn lại, “ái tình nhục dục” luôn được láy lại khi
miêu tả về tình yêu của Chương và Tuyết: “Luôn trong một tuần lễ, hai người yêu
nhau. Chương để mặc ái tình nhục dục (TVT nhấn mạnh) lôi kéo đi, chàng như mê man
không kịp suy xét”[18].
Không phải con người luân lí trong Chương không muốn chế ngự cái bóng tối ấy của
lòng mình, tìm cách đưa nó vào trong những khuôn thước quen thuộc. Mọi phương
thuốc của thứ tình yêu hợp đạo lí phê duyệt được đưa ra để níu giữ Tuyết: đề
nghị một cuộc hôn nhân, ràng buộc nàng bằng một tình yêu đẹp đẽ cao thượng,
luôn biết tha thứ trước những bất thường, trước những lần bỏ đi đầy “hồn nhiên”
một cách tàn nhẫn của Tuyết. Nhưng Tuyết cũng như con người sắc dục trong
Chương không bao giờ thuộc về thế giới mà con người luân lí trong Chương đã nỗ
lực tạo ra. Đoạn văn sau đây rất tiêu biểu cho sự phân cách của hai thế giới ấy:
“Chương thở dài:
- Em không hiểu ái tình
là gì hết!
- Thế ái tình là gì, thưa
anh, nếu chẳng phải là sự gặp gỡ của hai xác thịt?
- Không em ạ! Sự gặp gỡ của
hai linh hồn.
Tuyết lại cười:
- Cái ái tình ấy xin để tặng
cô ... Á, nhân tiện em hỏi anh, con bà phủ tên gì nhỉ?
- Thu
Chương cau mày, có vẻ
không bằng lòng, Tuyết lại nói luôn:
- Còn em thì biết có một
thứ ái tình: ái tình xác thịt”[19].
Trong tác phẩm Tuyết đã
ba lần bỏ đi rồi lại bất ngờ trở lại. Ở hai lần đầu nàng đều được tha thứ. Ở phần
kết, sau lần bỏ đi thứ ba, Tuyết một lần nữa trở lại. Nhưng lần này là với một
hình hài bệnh tật, xộc xệch già nua đến mức thoạt đầu Chương không nhận ra hình
bóng mà chàng đã một thời say đắm. Chính điều ấy đã khiến nàng hiện lên với một
giá trị khác hẳn trong mắt Chương:
“Những
cử chỉ ngây thơ của Tuyết mà trước kia Chương cho là rất có duyên ngày nay
chàng chỉ thấy vụng về, dơ dại. Tuyết tưởng làm vui lòng chàng, ngờ đâu lại khiến
chàng thêm ghét, thêm khinh. Là vì...sắc đẹp đã tàn, ngày xanh mòn mỏi, thì còn
đâu là ái tình, họa chăng còn lại chút trắc ẩn với kẻ phiêu lưu khốn nạn”[20].
Có một chút ngập ngừng với
dấu (...) như một sự e ngại, một sự kiểm duyệt của những qui tắc thông thường
nhưng các tác giả của Đời mưa gió đã
thật dũng cảm để miêu tả nhân vật của mình trong sự tột cùng chân thật của những
cảm nhận. Với những cảm nhận ấy, Chương đã chạm đến tận đáy vực thẳm của lòng
mình. Bao nhiêu là những son phấn của một thứ tình của yêu linh hồn và cao thượng
mà chàng tôn thờ đã trôi tuột trước hình hài thê thảm của Tuyết. Tình yêu của
chàng với Tuyết chẳng hề cao thượng như chàng lầm tưởng. Đấy chỉ là sa ngã trước
sắc dục. Chính vì thế lời tha thứ và tình yêu mà Chương nói với Tuyết sau này
chỉ là một thứ thói quen, một quán tính của luân lí đang cố gắng “chiêu an” sắc
dục. Con người luân lí trong Chương đã lầm tưởng nhưng Tuyết - con người của vực
thẳm sắc dục thì không, đáp lại những ân cần của Chương là một đáp từ: “Nhưng
em già mất rồi”[21]. Sự kiện bỏ đi của Tuyết
sau đó là nằm trong logic tất yếu.
2.3.3 Cái hố sâu giữa Chương và Tuyết
chính là khoảng cách giữa tình yêu hợp thức và sắc dục; giữa ánh sáng và bóng tối;
lí tính và sự rồ dại trong tâm hồn Chương. Tất cả đều có thực trong chàng. Quan
hệ tình dục của Chương và Tuyết là điều kiện để những đối cực trên hiện diện
trong sự đối thoại và tranh biện với nhau. Nhờ thế tình dục đã trở thành cái biểu
đạt để tải chở một quan niệm mới mẻ về con người. Cái quan niệm ấy đặt một dấu
hỏi nghi ngờ trước cái nhìn con người như là một sinh vật luôn tuân theo những
lẽ phải, theo những điều mà luân lí cho phép và định sẵn. Nó nhận thấy trong mỗi
con người dường như luôn ẩn nấp phần bóng tối, rất khó được lí giải và cắt
nghĩa bởi những gì logic và hợp thức. Tất cả những sự sợ hãi và băn khoăn và ngờ vực ấy về bản
tính của con người đã được mã hóa/ dịch chuyển thành sự đam mê vừa mù quáng vừa
rộng lượng trước một người đàn bà giang hồ.
Đúng là thời điểm xuất hiện
của Đời mưa gió đã chi phối nhiều đến
việc cắt nghĩa tác phẩm. Ra đời năm 1934 cùng thời với Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa
chừng xuân (1933), Đoạn tuyệt
(1935)... những tác phẩm ca ngợi tình yêu tự do, Đời mưa gió đã bị khuôn vào thông điệp mang tính xã hội: giải phóng
phụ nữ của những tác phẩm cùng thời. Từ cách diễn dịch này, Tuyết được đem ra để
kết tội Tự lực văn đoàn đã cổ động
người phụ nữ giải thoát mình ra khỏi gia đình phong kiến nhưng để trở thành...
một gái giang hồ. Một sự thi vị hóa, tô vẽ cho lối sống buông thả trụy lạc.
Trong khi đó, theo chúng tôi, Đời mưa gió
phải được đặt trong mối quan hệ với một tác phẩm khác xuất hiện muộn hơn ở
giai đoạn sau: Bướm trắng. Về tác phẩm
này, Phạm Thế Ngũ đã có những nhận xét hết sức tinh tế:
“Tác
giả có một cái nhìn sâu sắc và can đảm. Người ta tưởng thấy rõ ảnh hưởng của
Dostoievsky, của Gide khi đọc những đoạn nhân vật Trương xem xét cái thiện cái
ác dưới con mắt hòa đồng hay cúi xuống thăm dò cái hố sâu tội lỗi trong tâm hồn
mình”[22].
Chúng tôi cho rằng đấy
cũng chính là ấn tượng khi chúng ta đứng trước cách khai thác và miêu tả tình dục
trong Đời mưa gió.
Cần lưu ý rằng, một trong
những đặc trưng của văn học thời kì này là nỗ lực để nhận diện về con người một
cách thành thực, không tô vẽ; con người như chính sự tồn tại phức tạp của nó
trong đời sống. Nguyên lí nghệ thuật này rồi đây sẽ được Thạch Lam tổng kết như
một sự định hướng cho sự vận động của tiểu thuyết:
“người
ta là một động vật rất phiền phức. Tâm hồn người ta không giản dị như một biểu
hiện và bao giờ cũng có một phần bí mật (...) Người ta là người với những sự
cao quí và hèn hạ của người. Những hành vi của người ta không phải chỉ do lẽ phải
và tri thức, và phần nhiều định đoạt bởi những nguyên cớ sâu xa khác: tính di
truyền, tạng người, tính chất v.v...Nhà tâm lí học Freud, khi giảng rõ cái quan
trọng của phần ‘vô giác’ trong sự sống của người đã mở một cách gián tiếp một
cái bờ cõi không ngờ cho văn chương. Nhà nghệ sĩ là nhà nghệ sĩ tạo ra những
nhân vật thật và hoạt động, ngoài những tính cách và đặc điểm của cái địa vị xã
hội, tìm đến được cái bí mật không tả được
ở trong mỗi con người (TVT nhấn mạnh)”.[23]
Những nhận xét trên dường
như là sự vang vọng với những gì mà chúng ta đã nhận thấy trong Đời mưa gió. Sự đam mê sắc dục phải
chăng chính là “cái bí mật không tả được” trong tâm hồn của Chương? Cần phải
ghi nhận (và điều này là đặc biệt quan trọng để chúng ta nói đến sự hình thành một
diễn ngôn mới về tính dục) trong nhận định của Thạch Lam sự hiện diện của
Freud - một tên tuổi lớn của tâm lí học và triết học phương Tây về tình dục và
vô thức (Thạch Lam chuyển ngữ là “vô giác”) như một ảnh hưởng được tiếp nhận
khá rộng rãi trong giới cầm bút Việt Nam thời kì này. Không phải ngẫu nhiên mà
điều thứ 9 trong tôn chỉ của Tự lực văn đoàn đã ghi rõ: “Đem phương pháp khoa học
Thái Tây áp dụng vào văn chương”. Với trường hợp như Vũ Trọng Phụng[24]
chẳng hạn thì dấu ấn của Freud hiện diện không chỉ trong văn chính luận mà còn
chi phối cả cấu trúc nghệ thuật mà rõ nhất là trong Số đỏ, Làm đĩ. Peter
Zinoman có cơ sở khi cho rằng: “Mặc dù Số
đỏ chế nhạo những kiến thức của giới tinh hoa người Việt về nhà hiện đại chủ
nghĩa vĩ đại người Áo, Phụng say mê phép phân tích tích cách của Freud và cố gắng
áp dụng vào một số tác phẩm của ông”[25].
Nhưng dường như không phải chỉ có Freud. Trong diễn văn của đốc tờ Trực Ngôn về
“sự khủng hoảng tình dục của đám phụ nữ nạ giòng” ta thấy những viện dẫn từ những
luận điểm khoa học của bác sĩ Vachet[26].
Hiển nhiên đây là một diễn văn khoa học được tái hiện bằng lối văn nhại
(parody) nhưng không phải không khiến ta nghĩ đến một nỗ lực của Vũ Trọng Phụng
khi tiếp cận vấn đề tình dục bằng những cơ sở của khoa học[27].
Bài diễn văn của đốc tờ Trực Ngôn, do thế, không phải không liên quan đến, ở một
chừng mực nhất định, quan niệm của Vũ Trọng Phụng về tình dục. Đến Làm đĩ, quan điểm này của Vũ Trọng Phụng
đã được ông phát ngôn một cách công khai: “Cái dâm thuộc về quyền sinh lí học
chứ luân lí không kiềm chế nổi nó”[28]. Nhìn nhận tính dục dưới góc nhìn
khoa học, quả thực, là diễn ngôn thống trị về tính dục trong xã hội hiện đại.
Khi Hoàng Ngọc Hiến nhận xét về căn bệnh ngứa ngáy xác thịt của bà phó Đoan:
“người đàn bà góa này lố bịch không phải vì những ham muốn tình dục thường tình (TVT nhấn mạnh) mà vì miệng bà lại cứ rêu rao
chuyện phẩm giá thủ tiết, súng sính tiết hạnh rởm”[29]
thì rõ ràng nhà nghiên cứu cũng đã cho rằng ham hố tình dục ở bà phó Đoan là vấn
đề sinh lí và vì thế là “thường tình”. Tất cả những sự kiện trên cho thấy: diễn
ngôn đạo đức về tính dục đã được thay thế bởi diễn ngôn khoa học về tính dục;
hệ qui chiếu đạo đức được thay thế bởi hệ qui chiếu sinh học – một phân ngành
thuộc khoa học tự nhiên. Điều này dẫn đến một hệ quả hết sức quan trọng: những
miêu tả về tính dục không còn bị lên án từ phía luân lí nữa mà bắt đầu được xem
như một vấn đề thuộc về tri thức, là một vấn đề cần được tìm hiểu khách quan theo
những tiêu chí của khoa học. Nó
được xem là một thuộc tính bí ẩn của con người cần được tìm hiểu chứ không phải
là mục tiêu cho những cấm đoán của luân lí. Đúng như Foucault đã chỉ ra
trong Lịch sử tính dục: tính dục từ
chỗ là một hành vi của con người, dưới ảnh hưởng của diễn ngôn khoa học đã trở
thành chìa khóa để trả lời cho câu hỏi: chúng ta là ai trong xã hội hiện đại. Đến
lượt nó, diễn ngôn khoa học về tính dục khiến cái tôi bắt đầu trở thành một thực
thể khó hiểu ngay với chính bản thân nó; cái tôi trở thành một thực thể mờ đục
và không thể thuần túy bị phán xét từ những tiêu chí của luân lí. Điều
này giải thích vì sao, mỗi khi có nhu cầu tìm kiếm về một cái tôi bí ẩn khó
chia sẻ thì sự miêu tả về tính dục lại xuất hiện. Ta sẽ thấy điều này, một lần
nữa, được Nhất Linh thực hiện một cách tinh tế, nghệ thuật hơn trong Bướm trắng – cuốn tiểu thuyết mà trong khi
bị xem bị xem là vô luân đã cho thấy rõ
nét: nó thuộc về một diễn ngôn hoàn toàn khác lạ với truyền thống.
Tóm lại, diễn ngôn khoa học
về tính dục đã nới lỏng và cho phép sự hiện diện trực tiếp hơn của những miêu tả
về những cảm giác, hành vi dục tính. Biến nó trở thành một chìa khóa để đi vào
tìm kiếm những ngóc ngách bí ẩn trong đời sống tâm lí của con người. Như thế, nếu
như những kết luận cho rằng: con người trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ đến
1945 trở nên phức tạp và nhiều chiều kích hơn thì một trong những nguyên nhân
căn bản để lí giải hiện tượng này đó là: diễn ngôn khoa học về tính dục đã thay
thế cho diễn ngôn đạo đức. Và điều này giải thích vì sao, để đi vào những ngõ
ngách, những bí ẩn trong tâm hồn con người thì tính dục luôn là một lĩnh vực được
ưa thích, hữu hiệu nhất.
Cách khai thác tình dục
trong Đời mưa gió, theo chúng tôi,
chính là kết quả của sự biến đổi trên trong diễn ngôn về tính dục và điều này đến
lượt nó, như ta đã thấy, đem đến cho văn học một quan niệm mới về con người: một sinh thể với những góc khuất,
những bóng tối không dễ hiểu và không dễ khống chế - một quan niệm không
thể xuất hiện ở những giai đoạn trước đó khi khi diễn ngôn đạo đức về tính dục
còn thống trị trong sáng tác văn học.
[1]. Đến năm 1915 truyện được in thành
sách với nhan đề Hà Hương phong nguyệt.
Cuốn sách do sự đề cập trực diện đến những cảnh “ăn chơi trác táng trái với thuần
phong mĩ tục” nên đã bị chính quyền thuộc địa ra lệnh tịch thu, tiêu hủy. Công
trình “Khảo sát đánh giá, bảo tồn di sản văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX” do PGS. TS. Đoàn Lê Giang chủ biên cung cấp 59 trang đánh
máy khổ A4 lấy từ báo Nông cổ mín đàm.
Tuy nhiên, chỉ có 37 trang đánh máy đầu tiên (từ số 19, 20-7-1912 đến số 38,
21-12-1912) là chắc chắn. Từ cuối trang 37 cho đến hết được tính mốc bắt đầu từ
số 44, 27-4-1915 năm 1915 thì theo chúng tôi là văn bản của một truyện khác.
Nhân vật và cách hành văn khác hẳn với 37 trang trước đó, mặt khác ở giai đoạn
này khó mà hình dung có một tác phẩm đăng báo kéo dài đến gần 4 năm. Tất cả các
trích dẫn của chúng tôi về Truyện nàng Hà
Hương hay Hà Hương phong nguyệt đều
rút từ công trình này.
Về thời điểm ra đời, nội dung và phản
ứng của người đọc đời với Hà Hương phong
nguyệt có thể tham khảo thêm trong Địa
chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập 2, Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản thành
phố Hồ Chí Minh, 1988, tr. 314-315 và Bùi Thanh Vân. 2001, “Hà Hương phong nguyệt”,
Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ cuối
thế kỷ XIX đến 1945 do Vũ Tuấn Anh - Bích Thu. 2001 (chủ biên), Hà nội: Nhà
xuất bản Văn học, tr: 47-49
[2]
Theo Cao Xuân Mỹ, Người bán ngọc được
in thành sách năm 1931, xem: Cao Xuân Mỹ (sưu tầm) và Mai Quốc Liên (giới thiệu).
1999, Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX,
tập 1, Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, tr. 482. Tất cả
các trích dẫn của chúng tôi đều rút từ văn bản này. Tuy nhiên, từ trước đó khá
lâu, truyện đã được in trên báo Lục Tỉnh
Tân Văn từ số 1942, 3.3.1925 đến số 2052, 16.6.1925 với nhan đề: “Hoan hỉ
kì oan”.
[3]
Như trên, 487.
[4]
Như trên, 524.
[5]
Như trên, 516.
[6]
Như trên, 525.
[7] Lê
Hoằng Mưu. 1925, Lục tỉnh tân văn, số
1941, (2.2.1925).
[8] Phạm
Tú Châu. 1999, “Vài suy nghĩ về tiểu thuyết tình dục chữ Hán của Việt Nam”, Tạp chí Hán Nôm, số 3, (10, 1999), tr. 38-39.
[9] Về
thời điểm ra đời của tác phẩm này hiện vẫn chưa thống nhất. Trên bìa sách không
ghi năm xuất bản. Vũ Tuấn Anh ước đoán là vào năm 1926: xem mục “Hà Hương hoa
nguyệt”, Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt
Nam từ cuối thế kỷ XIX đến 1945, Vũ Tuấn Anh - Bích Thu. 2001 (chủ biên), Hà
nội: Nhà xuất bản Văn học, tr. 141. Phích thư mục tại Thư viện quốc gia Hà Nội
lại ghi là năm 1938.
[10] Võ Văn Nhơn, Lê Hoằng Mưu - nhà văn của những thử nghiệm táo bạo đầu thế kỷ XX,
http://www.vocw.edu.vn/
[11] Lục tỉnh tân văn, số 1941, (2.2.1925).
[12] Nhất
Linh. 1999, “Đời mưa gió”, trong Tuyển tập
Tự lực văn đoàn, tập 1 do Nguyễn Phan Hách, Phong Vũ.1999 (biên soạn), Hà Nội:
Nhà xuất bản Hội nhà văn, tr. 370.
[13]
Như trên, 381.
[14]
Như trên, 398.
[15]
Như trên, 399 – 400.
[16]
Như trên, 401.
[17]
Như trên, 401.
[18]
Như trên, 406 – 407.
[19]
Như trên, 434 – 435.
[20]
Như trên, 552 – 553.
[21]
Như trên, 556.
[22]
Phạm Thế Ngũ. 1965, Việt Nam văn học sử
giản ước tân biên, tập 3, Sài Gòn: Quốc học tùng thư, tr. 463.
[23] Thạch
Lam. 1988, “Quan niệm trong tiểu thuyết”,
Theo dòng trong Tuyển tập Thạch Lam, Phong Lê. 1988 (sưu
tầm, tuyển chọn và giới thiệu), Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học, tr. 288.
[24] Ảnh
hưởng của Freud trong cách tiếp cận về tình dục ở Vũ Trọng Phụng mang đậm màu sắc
phái tính khi ông viết về về cái dâm của phụ nữ, vì thế, như chúng tôi đã giới
hạn trong phần đầu bài viết, vấn đề này sẽ được đi sâu giải quyết ở một bài viết
độc lập khác.
[25]
Peter Zinoman. 2002, “Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng và chủ nghĩa hiện đại Việt Nam”, Tạp
chí văn học, số 7, (7, 2002), tr. 23
[26] Vũ
Trọng Phụng. 2006, “Số đỏ” trong Tuyển tập
Vũ Trọng Phụng, tập 2, Nguyễn Đăng Mạnh. 2006 (sưu tầm biên soạn), Hà Nội: Nhà
xuất bản văn học, tr. 476.
[27] Cần
thiết phải có một nghiên cứu độc lập về những diễn ngôn khoa học liên quan đến
vấn đề tình dục được công bố và có ảnh hưởng trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Cụ thể hơn: cần tìm kiếm trong hồi kí, tư liệu trung gian để xác định xem các
nhà văn Việt Nam thời kì đó đã tiếp nhận những diễn ngôn nào, với một thái độ
ra sao.
[28]
Vũ Trọng Phụng. 2004, “Thay lời tựa”, Làm
đĩ, Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học, tr. 36
[29]
Hoàng Ngọc Hiến. 2002, “Dị ứng với cái rởm, một phương diện của trào phúng Vũ
Trọng Phụng”, Tạp chí văn học, số10
(10.2002), tr.19
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét