Trong văn học Việt Nam
truyền thống, diễn ngôn tính dục được nắm giữ bởi hai chủ thể chính: người bình
dân và nhà nho. Quan niệm về tính dục trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX đến
1945 được nắm giữ bởi một chủ thể mới. Theo chúng tôi, chủ thể này là người thị
dân mà nòng cốt là tầng lớp trung lưu - sản phẩm của đô thị hiện đại Việt Nam đầu
thế kỷ.
Nhân vật chính của đô thị
truyền thống Việt Nam, đúng như Trần Đình Hượu nhận xét, là những nhà quyền quí
với xe kiệu võng lọng chứ không phải là nhà tư sản và túi tiền như ở đô thị
phương Tây[1].
Trần Ngọc Thêm cũng có một kết luận tương tự khi nhận thấy: khác với những đô
thị phương Tây, yếu tố “thị” (buôn bán/ thị trường) trong truyền thống của người
Việt luôn bị lấn át bởi yếu tố “đô” (cơ quan hành chính của nhà nước)[2].
Những đô thị hiện đại hình thành từ Nam ra Bắc đầu thế kỷ XX - hệ quả trực tiếp
từ sự xuất hiện của người Pháp với hai cuộc khai thác thuộc địa - có một khác
biệt căn bản với những đô thị truyền thống trước đó. Những đô thị hiện đại này,
bất chấp những biến dạng trong một xã hội thuộc địa, vẫn mang đậm màu sắc
phương Tây. Có thể khẳng định: đô thị hiện đại là không gian quan trọng nhất để
du nhập - nảy sinh và từ đó kiến tạo những nhân tố văn hóa mới của người Việt.
Vì thế, không thể hiểu đúng về những diễn ngôn tính dục trong văn học Việt Nam
giai đoạn đầu thế kỷ đến 1945 nếu không đặt
nó vào trong khung khổ của văn hóa đô thị thời kì này.
Trong cơ cấu xã hội truyền
thống của người Việt, theo học giả - nhà sử học Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương (1938): “chỉ
có hai bậc người; trên là bậc sĩ tức quí phái, dưới là bậc thường dân, chứ ở giữa
không có bậc trung lưu như ở xã hội hiện đại các nước Tây phương”[3]. Sự
xuất hiện của các đô thị hiện đại đã tạo ra một lớp người mới với những thương
nhân, quan lại cao cấp, các nhà thầu khoán, các nhà doanh nghiệp, các luật sư,
kĩ sư, các viên chức trong bộ máy nhà nước... Những người này do có địa vị và
chức nghiệp nên có thu nhập cao hơn hẳn. Môi trường sinh sống và làm việc của họ
lại đem đến nhiều cơ hội để tiếp xúc với văn minh phương Tây. Tầng lớp trung
lưu tại các đô thị đã thực sự xuất hiện. Với một lối sống mới. Lại vẫn là những
miêu tả của Đào Duy Anh:
“Một số
nhiều thanh niên trung lưu chịu giáo dục mới, nhiễm tư tưởng tự do và cá nhân
chủ nghĩa của Tây phương nên họ bài bác kịch liệt những giá trị xưa mà sinh hoạt
theo điều kiện tinh thần và vật chất mới. Họ đã quen thích những nhà cửa kiểu
tây, có lầu, có buồng tắm, đèn điện, quạt điện, có giường lò xo, có ghế bàn rộng
rãi. Cách trần thiết trong nhà thì họ hoàn toàn theo thức mới. Đi ra ngoài thì
họ hay dùng xe hơi. Trong sự xã giao thì cử chỉ dáng điệu cũng bắt chước tây, lễ
phép xưa ngăn cách trai gái già trẻ bằng những bức tường nghiêm mật, đối với họ
không có ý nghĩa gì nữa. Thanh niên đã kết hôn thì phần nhiều ở riêng; tiếp đãi
bạn bè thì họ mời đến cao lâu, phạn điếm; ngày đi làm việc, tối thì hoặc họ đi
xem chiếu phim, hoặc họ đi dự dạ hội. Theo xưa đàn bà con gái phải ở gia đình,
mà trong khoảng nam nữ phải giữ phép “thụ thụ bất thân” ngày nay thì một số
đông nam nữ thanh niên tự do dắt nhau đi chơi hoặc ôm nhau khiêu vũ. (...) Về y
phục thì đàn ông trung lưu hầu hết theo lối Tây, còn đàn bà con gái cũng đã bỏ
lối xưa mà theo mốt ‘tân thời’. Kiểu áo Lơmuya cùng giày dép cao gót dùng rất
phổ thông. Quần áo mới ấy cốt phô vẻ đẹp tự nhiên của thân thể và khiến con người
đi đứng có yểu điệu thướt tha. Những áo cụt tay và hở cổ cũng đã có một số ít
đàn bà dùng đến.
Về việc
hôn nhân thì sự tùy ý kết hôn càng ngày càng phổ thông (...) Cái khuynh hướng tự
do luyến ái và tự do giao thiệp của trai gái trung lưu lại nhận ảnh hưởng của
những phim ảnh về ái tình và những tiểu thuyết về tình dục mà thành quá lạm,
nhiều khi di hại.
Ta xem
thế thì thấy tầng lớp trung lưu ở thành thị ngày nay theo một cách sinh hoạt tự
do và xa xỉ hơn cách sinh hoạt của xã hội nông nghiệp xưa nhiều. Đối với văn
hóa Tây phương, họ chăm du nhập những điều cần dùng cho họ; điều kiện sinh hoạt
vật chất của họ dồi dào chừng nào thì lòng hâm mộ của họ đối với văn hóa Tây
phương càng nồng nàn chừng ấy”[4].
Trong cách miêu tả của
nhà sử học người ta thấy sự thay đổi của đô thị khởi từ những biến đổi trong đời
sống vật chất: nhà cửa - trang phục - và mở rộng dần đến những biến đổi trong
sinh hoạt tinh thần: cách giao tiếp - giải trí và cuối cùng là quan niệm về “tự
do luyến ái”. Nhận xét của Đào Duy Anh cho thấy tình dục được đề cập đến qua
nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, bên cạnh tiểu thuyết còn có cả phim ảnh
và trên thực tế thì còn phải tính đến các loại hình sân khấu: cải lương, kịch
nói[5]...
Phải thừa nhận rằng: đô thị, với sự đa dạng của phương tiện truyền thông và nghệ
thuật đã giành một không gian dân chủ đáng kể cho những diễn ngôn về tính dục
xuất hiện. Quan tâm đến những biểu hiện của tính dục, quả thực, là một nhu cầu
trong đời sống sinh hoạt của người thị dân. Một sự quan tâm cho phép những miêu
tả về đời sống tình dục được xuất hiện một cách tự do và trực diện hơn rất nhiều
so với truyền thống. Không cần đến những hình thức hóa trang lấp lửng như trong
thơ Hồ Xuân Hương, một nhà nho như Tản Đà, trong môi trường đô thị, có thể công
khai đặt nhan đề cho bài thơ của mình: Bóp
vú đau tay. Từ những năm 1912, tại Sài Gòn, sự khai thác về đề tài tình dục
cũng khiến tiểu thuyết của Lê Hoằng Mưu trở thành một sự kiện, các tác phẩm của ông “bán chạy như tôm tươi” “chinh phục xứ
Nam kỳ và cả thế hệ thanh niên thời đó”[6].
Hiển nhiên là những quan
tâm của người thị dân về tính dục không phải là nguyên nhân duy nhất và trực tiếp
nhất để tình dục xuất hiện và được khai thác mạnh mẽ đến thế trong văn học. Một
lý do khác: đô thị hiện đại với nền kinh tế thị trường đã biến văn học trở
thành một thứ hàng hóa đặc biệt. Có thời gian rỗi có tiền bạc, tầng lớp thị dân
chính là độc giả chủ yếu của văn học thời kì này. Chính vì lí do này nhu cầu và
sự quan tâm đến tình dục của người thị dân đã được cụ thể hóa thành quyền lực của người mua, quyền lực tối
thượng trong nền kinh tế thị trường. Tình dục trong trường hợp này được định hướng
bởi thị hiếu của người đọc nhằm thỏa mãn sự tò mò về phương diện bản năng, gắn
với chức năng thư giãn, giải trí của văn học đại chúng[7].
Mặt khác, và điều này có
một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cũng trong những miêu tả và bình luận của Đào
Duy Anh, sự biến đổi trong nhận thức về
tình dục ở đây được xem là dấu hiệu rõ nét nhất của sự dịch chuyển văn hóa từ
truyền thống sang hiện đại mà đô thị đóng vai trò là “bà đỡ". “Những
giá trị xưa”, “những bức tường nghiêm mật” của truyền thống bị công kích và dỡ
bỏ nhường chỗ cho những giá trị mới hướng tới sự “tự do và xa xỉ”. Chính từ
phương diện này mà các diễn ngôn tính dục đã được nối liền với với sự dịch chuyển và kiến
tạo của các giá trị văn hóa, là nơi hội tụ của các quan hệ và quyền lực: kinh tế,
chủng tộc, giai cấp, ý thức hệ.
[1] Trần
Đình Hượu. 1988, Văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời 1900 - 1930, Hà Nôi: Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên
nghiệp, tr. 11-12.
[2] Trần
Ngọc Thêm. 2004, “Tổ chức đô thị”, Tìm về
bản sắc văn hóa Việt Nam, Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 220-221.
[3]
Đào Duy Anh. 2002, Việt Nam văn hóa sử
cương, Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, tr. 398.
[4]
Như trên, 400 – 401.
[5] Về
vấn đề này, cần chú ý đặc biệt đến hiện tượng chuyển thể của những tác phẩm thuộc
đề tài ái tình. Một tác phẩm như Giọt máu
chung tình (1926) của Tân Dân Tử chẳng hạn đã được chuyển thể và nhiều loại
hình khác nhau: vọng cổ, tuồng, cải lương. Đây không phải là trường hợp cá biệt.
Tiểu thuyết Tắt lửa lòng của Nguyễn
Công Hoan, một tác giả của miền Bắc, khi vào Nam cũng đã được chuyển thể thành
vở cải lương Lan và Điệp lừng lẫy một
thời.
[6]
Lãng Tử. 1939, tuần báo Mai, số 8,
6-1-1939, dẫn theo Nguyễn Kim Anh. 2004 (chủ biên), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh: Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 125.
[7] Về
khái niệm văn học đại chúng và những điều kiện cho sự xuất hiện của nó, xin
xem: Trần Văn Toàn. 2008, “Hồ Biểu Chánh và thị hiếu độc giả”, Văn hóa nghệ thuật, số2, tháng 2, 2008,
tr. 89-90
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét