Thứ Hai, 2 tháng 2, 2015

Một số vấn đề lý thuyết tiếp nhận từ hoạt động dịch thuật đầu thế kỷ XX

Đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam từng bước ra nhập nền văn học thế giới. Một trong những nguyên nhân chính đưa lại sự thay đổi này là ảnh hưởng của văn học phương Tây, trong đó văn học Pháp giữ vai trò chủ đạo. Chính vì thế khi tiến hành so sánh, một trong những hướng nghiên cứu chủ yếu sẽ là đi tìm cơ chế cho hoạt động lựa chọn để tiếp nhận của văn học Việt Nam trước ảnh hưởng của văn học Pháp. Việc tìm hiểu cơ chế tiếp nhận này sẽ giúp chúng ta chẳng những xác định được những đặc điểm, thuộc tính nào của văn học Pháp đã được tiếp nhận mà còn lý giải được nguyên nhân cho sự có mặt của chúng ở Việt Nam. Trước khi Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách ra đời, cơ chế chính để tiếp nhận văn học Pháp chính là dịch thuật. Bài viết này hướng tới hai mục tiêu:
-Thứ nhất, phác họa đặc điểm và sơ bộ đánh giá những ảnh hưởng của văn học phương Tây (chủ yếu là của văn học Pháp) đối với sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam.
-Thứ hai, qua đó rút ra một số thu hoạch xung quanh vấn đề chủ thể tiếp nhận trong so sánh văn học.

1. Những tác phẩm dịch đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam là trên Đông dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh. Tuy nhiên, sự tiếp nhận văn học Pháp trở thành chủ động và thực sự có ý hướng với vai trò của Phạm Quỳnh. Trên Nam Phong, mặc dù có giới thiệu thơ của Lamartin, khảo về Beaudelaire và một số nhà thơ khác nữa nhưng rõ ràng cái hấp dẫn nhất đối với Phạm Quỳnh khi tiếp xúc với văn học Pháp là tiểu thuyết (bao gồm cả hai thể truyện ngắntiểu thuyết theo cách hiểu của chúng ta ngày nay). Trong 7 mục của Nam Phong có tới hai mục liên quan trực tiếp đến tiếp nhận tiểu thuyết Pháp. Mục thứ nhất là Văn học bình luận. Khái niệm văn học được hiểu khá rộng nhưng trong đó có dành cho tiểu thuyết một vai trò quan trọng: “hoặc lược hoặc dịch, hoặc diễn thích mà giới thiệu cho người ta biết những sách vở có danh tiếng trong văn chương các nước đời xưa đời nay[1]. Quả nhiên, theo tôn chỉ này Phạm Quỳnh đã giới thiệu các tiểu thuyết : Nghĩa cái chết, Phục thù cho cha, Lỡ độ đường của Paul Bourget, Nghĩa gia tộc của Henry Bordeaux; giới thiệu sự nghiệp và phong cách của các nhà văn nổi tiếng như E. M. de Vogue, Guy de Maupassant...
Hơn thế, tiểu thuyết còn được lấy làm tên cho một đề mục độc lập với tôn chỉ rõ ràng: “ dịch những tiểu thuyết hay ở tiếng Pháp ra”. Trong hoạt động dịch thuật này, Phạm Quỳnh “chủ nhất một điều: là chọn những sách văn chương hay, nghĩa truyện cao, kết cấu khéo, khá lấy làm mẫu cho cái lối tiểu thuyết của ta về sau này[2]. Kết quả của chủ trương này là hàng chục truyện ngắn và tiểu thuyết Pháp được dịch trên Nam Phong mà bản thân Phạm Quỳnh cũng là một dịch giả chủ chốt.
Lựa chọn và ưu tiên thể loại tiểu thuyết trong tiếp nhận là một khôn ngoan và nằm trong mục đích xây dựng một nền quốc văn mới của Phạm Quỳnh . Khi ông than thở: văn quốc ngữ ta ngày nay “là một đứa con không có mẹ[3] thì đó chủ yếu là nói đến văn xuôi quốc ngữ mà tiểu thuyết là một thành tố quan trọng. Tiểu thuyết là nơi để rèn luyện tiếng Việt. Trong khi chưa có được những tác phẩm do chính người Việt viết thì dịch thuật tiểu thuyết là một cách để luyện cách dùng từ đặt câu. Chính Phạm Quỳnh cũng tự nhận những bài giới thiệu, lược dịch của mình là “một bài tập luyện”.
2. Phạm Quỳnh đã lựa chọn những gì để tiếp thu và giới thiệu tiểu thuyết Pháp ở Việt Nam ?
2.1.Trước tiên, trong tuyên bố của mình, ông chủ trương học tập tiểu thuyết Pháp ở: “văn chương, kết cấu”. Tức là học tập kỹ thuật, cách viết. Theo đó, Phạm Quỳnh chú trọng giới thiệu lối kể chuyện từ ngôi thứ nhất trong Nghĩa cái chết, kỹ thuật phân tích tâm lý trong Phục thù cho cha, lối tả chân trong các tác phẩm của Guy de Maupassant...Là người am hiểu cả hai nền văn học Pháp, Việt nên trong khi giới thiệu cách viết của tiểu thuyết phương Tây, Phạm Quỳnh đồng thời so sánh nó với cách viết trong truyền thống của người Việt để tô đậm những nét mới mẻ của những nhà văn, tác phẩm mà ông lựa chọn để giới thiệu[4]. Những bài báo trên cùng với công trình Bàn về tiểu thuyết có thể xem là những bài học vỡ vạc về cách viết tiểu thuyết cho các nhà văn Việt Nam buổi đầu.
2.2.Tuy nhiên Phạm Quỳnh không chỉ tiếp nhận tiểu thuyết Pháp từ những lý do văn học. Còn có những lý do sâu xa hơn và nằm ngoài phạm vi của tiếp nhận văn học thông thường.
Quan sát thời đại của mình, Phạm Quỳnh thừa nhận một thực tế: đây là “buổi giao thời, cái nền nếp cũ đã mất mà cái nền nếp mới chưa thành[5]. Trước thực tế ấy, Phạm Quỳnh chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới cho dân tộc bằng giải pháp dung hòa Đông-Tây. Cố giữ lấy cái căn cốt của dân tộc nhưng có tham bác, bồi bổ thêm từ phương Tây. Vậy nên, những tiểu thuyết đầu tiên mà ông giới thiệu đều là những tiểu thuyết tuyên truyền luân lý, phục vụ trực tiếp cho tư tưởng tồn cổ của mình. Việc lược thuật khiến Phạm Quỳnh có thể thoải mái trong khi kể lại câu chuyện đồng thời cài vào đó những bàn luận mang định hướng luân lý. Cái mà ông chống lại nhiều nhất là chủ nghĩa cá nhân và đề cao tinh thần gia tộc. Kết thúc bài giới thiệu tiểu thuyết Nghĩa gia tộc của Henry Bordeaux, Phạm Quỳnh đưa ra lời bình luận của mình: Âu châu đang đứng trước nguy cơ của cá nhân chủ nghĩa. Theo ông, những kẻ hô hào chủ nghĩa cá nhân là không có phẩm hạnh, “chỉ vụ lợi mà không biết đến hiếu nghĩa... Xấu hổ cho kẻ nào chỉ biết thờ mình”. Những bậc cao thượng cần biết rằng: “gia tộc là cái cửa bể kín đáo để cứu bọn ta trong buổi ba đào”.. Vấn đề gia tộc là có thật trong tác phẩm của Henry Bordeaux. Những không là ngẫu nhiên khi nó được Phạm Quỳnh tuyển chọn để giới thiệu và đề cao một cách thật riết róng, thâm thiết đến thế: “Dưới đáy bể thường có ức triệu những giống vật rất nhỏ tụ vào nhau lại mà lâu dần hình thành từng cây san hô, sóng đánh cũng không đổ được. Cái gia tộc tức là cây san hô trong bể sinh hoạt đời nay[6]. Những lời bàn luận trên ẩn chứa những tâm sự và không mấy khó khăn để có thể nhận ra chúng. Cũng như thế, vì lo lắng cho sự say mê thái quá của tuổi trẻ trước những quyến rũ của tình ái đã khiến Phạm Quỳnh chọn dịch truyện ngắn Ôi thiếu niên của Georges Courteline và đánh giá tác phẩm này là “bài thuốc ...linh hiệu,..để cống hiến các hàng thiếu niên trong nước[7]
Cần nhấn mạnh một đặc điểm: quan niệm của Phạm Quỳnh về tiểu thuyết thuộc về quỹ đạo truyền thống. Thời trung đại, ở Việt Nam cũng như Trung Quốc, tiểu thuyết (trong quan niệm chính thống) có một vị trí hết sức thấp kém. Trong mệnh đề văn dĩ tải đạo thì khái niệm văn ở đó không bao hàm tiểu thuyết. Theo Lỗ Tấn cho biết, trong truyền thống Trung Quốc,  tiểu thuyết bị xem là tà tông. Ở Việt Nam , tiểu thuyết được gọi là ngoại văn (từ dùng của Dương Quảng Hàm) trong sự đối nghĩa với chính văn. Quan niệm của Phạm Quỳnh bớt cực đoan hơn. Ông chấp nhận tiểu thuyết là một thể của văn nhưng vẫn chủ trương: “Văn có nhiều lối đã đành, mà văn cũng có nhiều hạng”. Nhiều lối là khác biệt về thể loại, nhiều hạng là sự phân biệt về tôn ty: cao-thấp, trên-dưới, khinh-trọng. Theo đó Phạm Quỳnh chia văn làm 4 hạng (xếp theo trật tự từ thấp đến cao): hạng văn phổ thông, hạng văn đạo tình tiêu khiển mà tiểu thuyết là tiêu biểu, hạng văn kỷ thuật nghị luận, hạng văn thuyết lý giảng học[8]. Bảng phân loại trên cho thấy Phạm Quỳnh không thật coi trọng vị trí của tiểu thuyết. Tuy nhiên, sức hấp dẫn của tiểu thuyết đối với người đọc đương thời là một thực tế không thể phủ nhận[9]. Là người hoạt động thực tiễn, Phạm Quỳnh nắm bắt rất nhanh nhu cầu này. Chính vì thế, Nam Phong trở thành vườn ươm cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Chỉ có điều, trong khi giới thiệu, cổ súy cho tiểu thuyết Phạm Quỳnh đồng thời muốn đặt lên vai nhà tiểu thuyết cái nhiệm vụ “duy trì cho xã hội, dìu dắt cho quốc dân[10]. Ta hiểu vì sao khi giới thiệu Henry Bordeaux là một nhà văn sĩ có danh tiếng Phạm Quỳnh đồng thời nhấn mạnh: “Ông...thường làm sách để duy trì phong tục. Nên sách tiểu thuyết của ông thực là những bài luân lý hiển nhiên mà thâm thiết[11].
Vậy là, với Phạm Quỳnh quan tâm đến tiểu thuyết không ngoài ý hướng muốn lợi dụng thể loại này như một khí cụ để truyền bá những luận thuyết, luân lý của mình. Điều khiến chúng ta quan tâm ở đây là: quan niệm trên về tiểu thuyết không chỉ xuất hiện ở Phạm Quỳnh. Đây là một mẫu số chung cho tầng lớp cầm bút ít nhiều có vương nợ với truyền thống cũ. Nhìn sang địa hạt của văn học sáng tác lúc bấy giờ ta cũng bắt gặp một tình trạng tương tự. Tải đạo, truyền bá cho luân thường là động cơ để những cây bút như Mân Châu, Nguyễn Bá Học... trở thành nhà văn. Những cây bút trên (hoặc nhiều hoặc ít) có quan hệ trực tiếp với Nam Phong. Nhưng với những cây bút độc lập khác, chức năng tải đạo của tiểu thuyết cũng được công khai thừa nhận. Trên báo Khai Hóa, D.C khẳng định: “người các nước văn minh lợi dụng tiểu thuyết để truyền bá văn minh(...) có thể dùng tiểu thuyết mà làm chuông cảnh tỉnh, làm tiếng trống đăng văn, làm tiếng gà xào xạc tàn canh để gọi cho quốc dân biết sáng[12]. Điều này giải thích vì sao trong văn học sáng tác thời kỳ này đặc biệt thịnh hành thể loại tiểu thuyết cảnh thế, tiểu thuyết luân lý.
Sự gặp gỡ trong quan niệm về chức năng thể loại của Phạm Quỳnh và các nhà văn cùng thời cũng như sự tương đồng giữa văn học sáng tác và văn học dịch như đã miêu tả ở trên khiến ta có thể xem quan điểm của Phạm Quỳnh khi tiếp nhận tiểu thuyết từ phương Tây không phải là một đơn biệt mà có ý nghĩa như một đại diện tiêu biểu. Cơ sở sâu xa cho lối tiếp nhận này là chủ thuyết Đông học vi thể, Tây học vi dụng vốn rất được các nhà Nho Đông á đầu thế kỷ ưa thích. Trong việc tiếp nhận tiểu thuyết phương Tây của Phạm Quỳnh nói trên thì kỹ thuật là dụng, chức năng tải đạo là thể. Chính vì thế trong khi chăm chút và cởi mở học hỏi những kỹ thuật viết tiểu thuyết, ông chủ bút Nam Phong đồng thời muốn định vị thể loại này trong chức năng tải đạo của văn học truyền thống. Những kỹ thuật mới, như thế, được cấy trên nền của quan niệm văn học cũ. Nhu cầu tiếp nhận ở đây về cơ bản là nằm ngoài văn học và được gợi ý từ những quan niệm thể loại truyền thống. Mục tiêu mà nó hướng đến, vì thế, là những mục tiêu xã hội và văn hóa hơn là văn học thuần túy.
3/3.1. Tuy nhiên có một thực tế khác là: từ 1919 trở đi, trong khi việc giới thiệu những kỹ thuật viết tiểu thuyết vẫn được quan tâm và có phần chuyên sâu hơn trước thì vấn đề đạo lý dù không mất hẳn nhưng đã nhạt hơn nhiều. Thay vào đó những nội dung hoàn toàn mới mẻ. Có thể liệt kê ra đây những nội dung chính yếu nhất trong việc tiếp nhận ảnh hưởng của văn học phương Tây thời kỳ này trên Nam Phong:
- cái thực và sự vượt khung của nó đối với những luân lý được rao giảng trong sách vở
- con người bình thường trở thành một tiêu chuẩn
- tình yêu với những cung bậc khác nhau trở thành đề tài trung tâm
Điều đáng nói là các nội dung trên sẽ là những định hướng cho tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn sau này. Xin lấy một ví dụ: trên Nam Phong số 50, Phạm Quỳnh dịch một truyện cổ tích Đức ( được chú là Truyền kỳ tiểu thuyết ) nhan đề Truyện anh chàng đi khắp thiên hạ để học... run. Nhân vật chính của câu chuyện là một anh chàng ngốc nghếch. Anh ta xin cha cho tiền để đi học run. Trên đường đi học run, chàng ngốc đã vượt qua các thử thách và được gả công chúa. Nhưng anh ta vẫn rất khổ sở vì không biết run là gì trong khi mọi người thì luôn nói: Tôi rùng cả mình, tôi run cả người. Anh ta luôn lẩm bẩm Không biết run thế nào! Không biết run thế nào!. Câu chuyện chỉ kết thúc khi chàng ngốc (nhờ vào mẹo của bà nữ phó của công chúa) mà biết được thế nào là rùng mình. Câu chuyện này khá quen thuộc với người Việt Nam và vẫn được xem là chuyện giành cho trẻ em. Màu sắc phương Tây của nó đã khá mờ nhạt trong tiếp nhận của người Việt hiện nay. Có lẽ chính vì thế mà người ta đã không nhìn thấy ở đây sự báo trước cho sự hình thành và trở thành phổ biến của một quan niệm mới về con người trong văn học Việt Nam. Trong câu chuyện, nhân vật chàng ngốc không có được thuộc tính của một con người bình thường: biết rùng mình. Mục đích lớn nhất của anh ta, do thế, không phải là lập những chiến công hay kiếm tìm một phần thưởng như hầu hết các nhân vật khác trong truyện cổ tích. Nếu thế thì câu chuyện đã dừng lại ở chi tiết chàng ngốc được nhà vua gả cho công chúa (một kết thúc điển hình cho những truyện cổ tích thuộc loại này). Cuộc phiêu lưu lớn nhất của anh ta là để học rùng mình - để tìm kiếm một thuộc tính của con người bình thường, một trải nghiệm nhân sinh phổ biến. Được biết thế nào là rùng mình đã khiến chàng ngốc thực sự mãn nguyện. Câu chuyện kết thúc ở đây bởi sự kiếm tìm của nhân vật đã có được câu trả lời. Cái cảm giác được hưởng những trải nghiệm, kinh nghiệm sống của một con người bình thường rõ ràng là thú vị, hạnh phúc đối với nhân vật. Và như ta sẽ thấy: tìm kiếm những trải nghiệm nhân sinh phổ quát là một trong những định hướng cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn tiếp theo. Nhân vật của nó sẽ không còn là những đấng bậc trong văn học truyền thống nữa mà là những con người bình thường với những buồn vui của chúng sinh, những nếm trải thân thiết hằng gắn bó với cuộc đời thường nhật. Hoàn toàn có thể tìm thấy những dẫn chứng thuyết phục cho nhận định này không chỉ trong những sáng tác của Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng mà còn cả trong những sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao.
Cũng cần lưu ý một đặc điểm: yếu tố hài được đặc biệt quan tâm trong việc tuyển chọn những tác phẩm để dịch thuật thời kỳ này. Những phụ chú ngôn tình hài kịch, hoạt kê tiểu thuyết xuất hiện trong hầu hết các tác phẩm dịch đã nói lên điều này. Tiếng cười cũng có nhiều cung bậc. Không ngoại trừ cả những tiếng cười có tính chất giải trí, thư giãn thuần túy (Cái mũ phục thù). Cả ở đây nữa, các tác phẩm dịch trên Nam Phong cũng là một dự báo cho sự xuất hiện và thành công của Tự Lực Văn Đoàn sau này. Như ta đã biết, một lý do cơ bản đem lại sự chiến thắng cho tờ báo của Nhất Linh - bên cạnh sự đột phá vào những đề tài mới mẻ - chính là sự trẻ trung bởi cái hài hước (cố nhiên là bạo dạn hơn) khi hướng tới những vấn đề thời sự - những cái đáng cười trong thực tế đời sống.
Vậy là, vượt ra ngoài những dự định ban đầu của Phạm Quỳnh, ảnh hưởng của văn học phương Tây đã không chỉ thu hẹp ở phạm vi của những kỹ thuật và được sử dụng như một phương tiện để giữ gìn luân lý. Những tiểu thuyết dịch đã dự báo và góp phần không nhỏ trong việc hình thành một hệ chuẩn giá trị thẩm mỹ mới trong sáng tác và thưởng thức văn học. Theo chúng tôi, khi đi tìm những ảnh hưởng của văn học phương Tây vào Việt Nam từ sau 1925 trở đi thì những ảnh hưởng chiều sâu - những ảnh hưởng kiến tạo nên hệ giá trị ngầm ẩn - có ý nghĩa quan trọng hơn rất nhiều việc tìm kiếm một hình mẫu cụ thể trên bề mặt. Dù rằng cảnh sắc và những số phận của các nhân vật trong giai đoạn văn học sau này là rất Việt Nam nhưng hệ quy chiếu bên trong của nó thì đã mang những sắc tố mới từ phương Tây. Văn học dịch đã góp phần làm nên sự thay đổi sâu sắc, rất có ý nghĩa này.
3.2.Điều gì là nguyên nhân cho tất cả những biến đổi trên? Câu trả lời, theo chúng tôi, phải tìm ở đặc điểm của môi trường văn học những năm 1920.
         Với rất nhiều những nguyên nhân khác nhau, từ 1919 trở đi, các đô thị mới ở Việt Nam có những phát triển đột biến về chất. Thực tế này đã làm xuất hiện ngày một đông đảo tầng lớp thị dân. Có thu nhập, có thời gian rỗi tầng lớp thị dân này bắt đầu có nhu cầu về văn học như một thứ nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt của họ. Hình thành một cách tự nhiên một đội ngũ độc giả mới. Đối với tầng lớp độc giả này, những vấn đề đạo lý, những mô típ văn học truyền thống không còn sức quyến rũ như trước nữa. Họ cần văn học để giải trí, họ cần văn học để tìm hiểu về thực tế quanh mình và để tìm kiếm những bí ẩn trong đời sống nội tâm đang được hoàn cảnh sống mới khuyến khích theo hướng ngày càng trở nên phức tạp, ngày càng có nhu cầu được phô bày thổ lộ. Nói tóm lại, những nhu cầu mới về văn học đã trở nên rõ nét và đòi hỏi được đáp ứng[13].
Mặt khác, ở môi trường đô thị, kinh tế thị trường, đến giai đoạn này, đã thực sự được xác lập. Kinh tế thị trường biến tất cả trở thành hàng hóa và văn học cũng không là ngoại lệ. Quy luật cung - cầu bắt đầu tham gia vào định hướng cho sáng tác. Nhà văn không thể chỉ viết theo những gì anh ta muốn mà còn phải biết tôn trọng nhu cầu, thị hiếu của độc giả. Đây là nguyên nhân khiến thị hiếu độc giả trở thành nội dung của sáng tác văn học - điều mà trong môi trường văn học truyền thống không bao giờ có được. Là người trực tiếp đối mặt với hoạt động in ấn phát hành, Phạm Quỳnh rất có ý thức trong vấn đề lôi kéo độc giả cũng như ý thức về tính chất cạnh tranh trong một nền văn học theo định hướng thị trường[14]. Ta hiểu vì sao cái thực, tình yêu, những nếm trải của con người bình thường, cái hài hước - như trên đã miêu tả - ngày một đậm nét trong các tác phẩm dịch của Nam Phong. Đây đều là những thực đơn rất hợp với khẩu vị của đội ngũ độc giả trong môi trường đô thị lúc bấy giờ. Không còn nghi ngờ gì nữa, các tác phẩm dịch trên Nam Phong càng về sau càng tiệm cận với thị hiếu, sở thích của độc giả đương thời. Vậy là, những nhu cầu mới của văn học thoát thai từ môi trường đô thị qua áp lực của thị hiếu độc giả đã làm thay đổi đề án tiếp nhận văn học Pháp ban đầu của Phạm Quỳnh. Có thể nói, với vai trò trên, độc giả đã trở thành một chủ thể tiếp nhận không thể bỏ qua khi tìm hiểu hoạt động tiếp nhận văn học đầu thế kỷ. Với chủ thể tiếp nhận này, nhu cầu giao lưu văn học được hình thành từ chính những nhu cầu nội tại của văn học chứ không phải từ những lý do ngoài văn học như ở giai đoạn đầu.
4.Từ những miêu tả trên, chúng tôi muốn rút ra một số thu hoạch về vai trò của chủ thể tiếp nhận khi tiến hành so sánh văn học.  
4.1 Cần nhấn mạnh luận điểm rằng: những đặc điểm của nền văn học A không trực tiếp chuyển dịch sang nền văn học B. Sự dịch chuyển này bao giờ cũng phải thông qua vai trò của chủ thể tiếp nhận. Sự biến đổi của chủ thể tiếp nhận là nhân tố trực tiếp đưa đến sự biến đổi của hoạt động giao lưu văn học. Một ví dụ: trong văn học trung đại, cùng tiếp nhận những ảnh hưởng từ văn học Trung Quốc nhưng những nhà Nho như Nguyễn Trãi có cách tiếp nhận khác với các nhà Nho tài tử sau này.  Sự biến đổi của chủ thể tiếp nhận, ở trường hợp trên, diễn ra trong khung thời gian của những chặng, những giai đoạn khác nhau của lịch sử văn học. Giai đoạn giao thời lưu ý chúng ta một thực tế khác: ngay trong cùng một thời điểm có thể có nhiều chủ thể tiếp nhận khác nhau và do thế hình thành những khuynh hướng tiếp nhận khác nhau. Khuynh hướng thứ nhất được thể hiện khá rõ qua đề án tiếp nhận tiểu thuyết Pháp ở giai đoạn đầu của Phạm Quỳnh. Khuynh hướng này thường gắn với chủ thể tiếp nhận là tầng lớp trí thức đặc tuyển - những người, dù muốn hay không đều ít nhiều vương nợ với vốn liếng văn hóa và văn học trong truyền thống. Khuynh hướng tiếp nhận thứ hai gắn với chủ thể tiếp nhận là người đọc. Chủ thể tiếp nhận này xuất hiện muộn hơn và những thị hiếu sở thích của họ là con đẻ trực tiếp của môi trường văn hóa mới. Mối quan hệ qua lại của hai chủ thể tiếp nhận này đã chi phối trên những nét lớn của hoạt động giao lưu văn học giai đoạn giao thời. Phân loại và tìm hiểu mối quan hệ tương tác giữa những chủ thể tiếp nhận khác nhau, theo chúng tôi, có ý nghĩa đặc biệt khi nghiên cứu giao lưu văn học trong văn học hiện đại - luôn được đặc trưng bởi mối quan hệ phức tạp giữa nhà văn và độc giả, bởi sự tất yếu ra đời của những trường phái và khuynh hướng sáng tác đối lập nhau.
Trong cả hai trường hợp nêu trên, chủ thể tiếp nhận được hiểu như là một tập hợp của những cá nhân có chung một khuynh hướng tiếp nhận nào đó. Chủ thể tiếp nhận cũng có thể được quan niệm như là những cá thể (nhất là đối với những tác giả có vai trò quan trọng trong lịch sử văn học). Luận điểm này không mới và hoàn toàn có thể dễ dàng thống nhất với nhau trên phương diện lý thuyết. Tuy nhiên chúng tôi vẫn muốn nêu ra ở đây như một sự nhấn mạnh, bởi lẽ: vì những lý do khác nhau (trong đó có cả lý do từ phía năng lực của người nghiên cứu), hoạt động so sánh văn học của chúng ta chủ yếu vẫn xoay quanh chủ thể tiếp nhận như là một tập hợp hơn là một cá thể.
   4.2  Chủ thể tiếp nhận không phải là nhân tố duy nhất tham gia vào hoạt động giao lưu văn học. Các nhà nghiên cứu đã nhắc tới không ít các nhân tố khác như:
-các phương tiện mà nhờ vào nó các tác phẩm văn học được truyền từ nền văn học này sang nền văn học kia
-không gian và thời gian khi xảy ra hoạt động giao lưu văn học.
-các nhóm yếu tố liên quan đến trạng thái tiếp nhận như: tiếp nhận tự nguyện hay cưỡng bức; tự phát hay có định hướng.
-các nhóm yếu tố liên quan đến tình hình xã hội, chính trị ... khi xảy ra tiếp xúc văn học...v.v...
Tuy nhiên, tất cả những yếu tố trên không tác động một cách riêng rẽ vào hoạt động giao lưu văn học. Chúng tác động theo phương thức tổng hợp. Chủ thể tiếp nhận là điểm mà ở đấy cho ta thấy rõ nhất sự tương tác của các nhân tố này. Sự đi sâu vào một nhân tố cụ thể nào đó chỉ có ý nghĩa khi nó soi sáng một vấn đề, nhu cầu, điều kiện  nào đó để tiến hành  hoạt động giao lưu văn học của chủ thể tiếp nhận.
Điều cần lưu ý là: các nhân tố kể trên thay đổi và có vai trò không như nhau trong những điều kiện đặc thù của từng nền văn học cụ thể. Việc thống kê, phân loại và mô tả mối quan hệ của các nhân tố này là vượt quá khả năng và cũng không phải là mục tiêu của chúng tôi trong bài viết này. Ở đây xin chỉ nhấn mạnh hai nhân tố có tác động rõ nét nhất đến chủ thể tiếp nhận:
Nhân tố thứ nhất: môi trường văn hóa. Giao lưu văn học, như ta đã biết, không diễn ra ở môi trường chân không. Trái lại, nó diễn ra trong sự cho phép và điều tiết của những điều kiện cụ thể về văn hóa. Sự xuất hiện của nhân tố văn hóa ở đây đóng vai trò là văn cảnh cho giao lưu văn học. Từ góc độ này, có thể chia giao lưu văn học làm hai kiểu chính: giao lưu văn học giữa những nước có cùng loại hình văn hóa và giao lưu văn học giữa những nước thuộc về hai loại hình văn hóa khác nhau.
Giao lưu văn học Việt Nam và Trung Quốc thời trung đại là điển hình cho kiểu loại thứ nhất. Sự tương đồng văn hóa kéo theo nó là sự tương đồng về đội ngũ sáng tác (đều là các nhà Nho), quan niệm văn học, môi trường văn học, hệ thống thể loại...đã khiến hai nền văn học Việt Nam và Trung Quốc đối diện trước nhau như hai nền văn học đồng chất. Chính vì thế ảnh hưởng văn học diễn ra có hai đặc điểm: a-mang tính tổng thể. Văn học Việt Nam tiếp nhận văn học Trung Quốc không chỉ ở phương diện kỹ thuật mà cả ở phương diện quan niệm. b-theo hướng phiên bản. Trong nhiều thế kỷ, văn học Việt Nam không nhằm tạo ra sự khác biệt với văn học Trung Quốc. Trái lại, nó bị nền văn học này hấp dẫn theo hướng vô tốn bất dị. So sánh văn học trong trường hợp này thú vị nhất là tìm ra những khác biệt nhưng những khác biệt này nhất thiết phải được đặt trong sự tương đồng ở chiều sâu. Nói cách khác đây là những khác biệt mang tính biến thể hơn là những dị thể. Nếu so sánh Truyện Kiều với một vài tác phẩm cụ thể của Trung Quốc ta có thể thấy những sai biệt rất lớn. Nhưng nếu so sánh dựa trên việc xem tổng thể văn học Trung Quốc như là đối tượng tiếp nhận của Nguyễn Du thì có lẽ những khác biệt trên sẽ không còn thật sự đậm nét.
Giao lưu văn học Việt Nam và văn học phương Tây đầu thế kỷ là giao lưu văn học của hai nền văn hóa khác nhau. Sự khác biệt về văn hóa chi phối sự khác biệt của hệ thống quan niệm. Hai nền văn học đối diện nhau như là những dị chất. Trong trường hợp này, khi tiến hành so sánh văn học (đặc biệt ở giai đoạn đầu khi hai nền văn học có những tiếp xúc đầu tiên) nếu bắt gặp những tương đồng cần hết sức thận trọng. Rất nhiều khi những tương đồng này chỉ là bề ngoài còn nội dung và hệ quy chiếu bên trong lại có những sai biệt rất lớn. Trong một bài viết khác của mình, chúng tôi đã chứng minh: khái niệm tả thực hay tả chân trong văn học giao thời rất khác với nội hàm của chủ nghĩa hiện thực trong văn học phương Tây[15]. Ở bài viết này, khi tìm hiểu quan điểm tiếp nhận tiểu thuyết của Phạm Quỳnh ở giai đoạn đầu ta cũng bắt gặp một hiện tượng tương tự. Cái vay mượn chỉ dừng lại ở tên gọi và kỹ thuật viết. Trong khi đó chức năng thể loại lại xuất phát từ những quan niệm của truyền thống. Thực tế này lưu ý chúng ta: khi so sánh hai nền văn học thuộc về những loại hình văn hóa khác nhau, điều thú vị nhất là tìm ra những khác biệt đằng sau những điểm tương đồng. Những khác biệt này được tạo nên bởi sự khác biệt của truyền thống văn hóa, văn học. Chính những khác biệt như thế đã khiến kết quả của giao lưu văn học, trong trường hợp này, không phải là sự sao chép mà đúng hơn là một tích hợp. Nhìn từ góc độ này, sự khác biệt của loại hình văn hóa, theo chúng tôi, là điều kiện lý tưởng cho hoạt động giao lưu văn học. Bởi lẽ, những giao lưu như thế là tiền đề cho những cách tân văn học.
Nhân tố thứ hai: môi trường văn học khi xảy ra hoạt động giao lưu văn học. Đây là nhân tố có tác động trực tiếp và nhiều mặt đến chủ thể tiếp nhận. Như chúng ta đã thấy ở trên: ở giai đoạn giao thời, người đọc đã xuất hiện với tư cách là chủ thể của hoạt động tiếp nhận. Một vai trò như thế không thể có được trong môi trường văn học truyền thống. Không có thị trường văn học, sáng tác trên một thứ văn tự chỉ dành riêng cho tầng lớp đặc tuyển là những lý do khiến trong môi trường văn học truyền thống người sáng tác và độc giả hầu như không có một sự phân định rõ ràng. Không phải không có những gia giảm khi nhà Nho ngôn chí và thù tạc; tâm sự và cho chữ. Nhưng về cơ bản, người viết sáng tác cho những người đồng thanh, đồng khí chứ không phải cho kẻ khác. Nói cách khác, áp lực của những nhu cầu và thị hiếu ở người đọc không xuất hiện rõ nét trong nhận thức của người viết. Chính môi trường văn học đô thị đã làm xuất hiện thuộc tính hàng hóa trong tác phẩm văn học và điều này đã cho phép độc giả giữ vai trò chủ thể tiếp nhận trong hoạt động giao lưu văn học. Thực tế trên đã khiến cho vấn đề chủ thể tiếp nhận trong giai đoạn giao thời trở nên phức tạp hơn so với truyền thống. Từ đây chủ thể tiếp nhận cần được nhận thức trong những mối quan hệ qua lại, phức tạp giữa nhà văn và độc giả. Như những phân tích của chúng tôi đã cho thấy: chính những mối quan hệ này đã làm xuất hiện những nguyên nhân nội tại của hoạt động giao lưu văn học.
Việc xác định mối quan hệ giữa người sáng tác và độc giả như là một nhân tố cho thấy tác động của môi trường văn học đến chủ thể tiếp nhận giúp ta đi sâu hơn nữa vào việc nhận diện sự phong phú của các dạng thức giao lưu văn học. Bởi lẽ: cả người sáng tác và độc giả đều là những biến số. Cùng tiếp nhận ảnh hưởng từ phương Tây nhưng nếu quan hệ giữa người sáng tác và độc giả thay đổi ta sẽ có những mô hình tiếp nhận khác nhau. Nguyễn Aí Quốc tiếp nhận ảnh hưởng của văn học phương Tây ở ngay tại quê hương của nó. Ông sáng tác bằng tiếng Pháp, cho người đọc là người Pháp ngay tại Paris. Cách tiếp nhận như thế rõ ràng là rất khác với với sự tiếp nhận của văn học phương Tây ở những nhà văn như Phạm Duy Tốn - những cây bút chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây ở môi trường Việt Nam và do thế có một độc giả với những nhu cầu văn học hoàn toàn khác.
Thuật ngữ văn học thế giới đang ngày một có vai trò quan trọng khi mà thế giới đã là một cái làng nhỏ. Ở đó, những vấn đề toàn cầu có tác động trực tiếp đến sự phát triển của từng nền văn học dân tộc. Tuy nhiên, mọi tác động đều phải qua tiếp nhận của chủ thể. Kết luận cuối cùng của chúng tôi cho bài viết này là: cần nhận diện đúng những nhân tố quy định những đặc điểm của chủ thể tiếp nhận trong hoạt động giao lưu văn học. Điều ấy cũng có nghĩa là: sự ra nhập vào bản đồ văn học thế giới chỉ thực sự xuất hiện khi nó trở thành nhu cầu nội tại của nền văn học dân tộc./.
                                                               Đồng Xa, 20-5-2004
Nguồn: Văn học so sánh nghiên cứu và triển vọng (Trần Đình Sử, Lê Lưu Oanh chủ biên), NXB ĐHSP 2005, tr. 248-262.





[1] Nam Phong số 1-tr6
[2] Nam Phong số 1-tr7
[3] Nam Phong số 2-tr 80
[4] Xem Trần Văn Toàn: Tả thực và sự cách tân của các thể loại tự sự giai đoạn giao thời- Kỷ yếu Hội nghị các nhà Ngữ văn trẻ lần thứ hai- Nxb ĐHSP- Hà Nội-2004.
[5] Nam Phong số 1-tr 3
[6] Nam Phong số 2 - tr 92
[7] Nam Phong số 52
[8] Thượng Chi văn tập - t2 - tr 124 -128
[9] Trên báo Khai hóa ra ngày 7-7-1923, D.C có nhận xét:”...đã là người đọc thông được mạt chữ thì dù là bậc thượng lưu, dù người hà tiện, ai cũng thích xem tiểu thuyết”- dẫn theo Vương Trí Nhàn: Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam(từ đầu thế kỷ cho đến 1945)-tr 36 - Nxb Hội nhà văn - 2000.

[10] Thượng Chi văn tập - t3 - tr 287
[11] Nam Phong số 2 - tr 89
[12] Vương Trí Nhàn - Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam(từ đầu thế kỷ cho đến 1945)-tr 38 - Nxb Hội nhà văn - 2000.
[13]Một minh chứng cho vấn đề này được nhìn thấy rất rõ qua trường hợp Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Cuốn tiểu thuyết này là tiếng vang trực tiếp của quan niệm văn học cũng như của những chủ đề dịch thuật đã được giới thiệu trên Nam Phong trước đó. Chính vì thế, Tố Tâm, trước tiên, được viết theo chủ thuyết tải đạo của Nam Phong. Theo định hướng này, Hoàng Ngọc Phách viết Tố Tâm không phải là để ngợi ca tình yêu tự do mà để thực hiện chức năng cảnh thế: khuyên răn thanh niên đừng sa chân vào cạm bẫy tình ái mà ôm hận ngàn thu. Nhưng mặt khác, việc lấy tình yêu làm đề tài trung tâm và những kỹ thuật miêu tả thiên nhiên, phân tích tâm lý học tập được từ tiểu thuyết Pháp đã khiến nó có một diện mạo khác, một ý nghĩa khác trong tiếp nhận của người đọc. Biết bao bâng khuâng, thổn thức được gợi nên từ sự đan cài, chuyển hóa giữa khổ đau và hạnh phúc trong những nếm trải về tình yêu lần đầu tiên được phô bày trực diện trong tác phẩm đã khiến độc giả  ngây ngất. Cuốn sách nói hộ những gì đang âm thầm ngự trị trong cõi lòng họ. Người ta bắt gặp chính mình trên trang sách. Nhu cầu khám phá chính mình đã khiến độc giả quên đi lời giáo huấn nhiệt thành của tác giả. Họ biến cuốn sách trở thành món ăn cho tâm hồn đã trở nên mạnh mẽ, táo bạo bởi khao khát được sống với những cảm xúc yêu đương. Phạm Thế Ngũ, như thông lệ, có một nhận xét hóm hỉnh và sâu sắc: “Tác giả muốn làm một ông giáo sư đạo đức. Song ông nói không ai nghe, người ta chỉ chạy theo ông để thờ ông làm thầy dậy ái tình” (Việt Nam văn học sử giản ước tân biên- tr366). Rõ ràng, với nhu cầu mới mẻ của mình, độc giả đã là người viết lại tác phẩm. Hiển nhiên là: những gì mà người đọc khao khát tìm thấy ở Tố Tâm cũng là những điều mà họ tìm kiếm khi đến với văn học dịch ở giai đoạn trước đó.

[14] Dù không lần nào trực tiếp nói về vấn đề thị trường văn học, nhưng ý thức về vấn đề này của Phạm Quỳnh có thể thấy rõ khi ông bộc bạch về một trong hai lý do vì sao không trả lời bài công kích của cụ nghè Ngô Đức Kế: “ông chủ bút Hữu Thanh đã lập tâm gây sự với tôi để làm quảng cáo cho báo ấy, thì tôi là chủ bút báo Nam Phong, khi nào tôi chịu mắc mưu đó. “- Những áng văn hay-Nam Ký thư quán-1933-tr67
[15] Xem Trần Văn Toàn: Tả thực và sự cách tân của các thể loại tự sự giai đoạn giao thời- Kỷ yếu Hội nghị các nhà Ngữ văn trẻ lần thứ hai- Nxb ĐHSP- Hà Nội-2004.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét