Văn thơ Phan Bội Châu của Đặng Thai Mai là một công trình kinh điển về tác gia văn học sử nói chung cũng như về tác gia Phan Bội Châu nói riêng. Văn bản này xuất bản đã lâu, khó tìm để đọc. Tôi post ở đây một số luận điểm chính để sinh viên có thể tham khảo. Chữ số Ả rập trong ngoặc vuông là số trang.
VĂN THƠ PHAN BỘI
CHÂU
ĐẶNG THAI MAI
(Nhà xb Văn hóa, 1960, in lần thứ hai)
I. Sự nghiệp văn chương của Phan Sào Nam là một bộ phận
trong công tác cách mạng của nhà chí sĩ
“Thi cử chỉ là một
phương tiện để cho ‘thành danh’ và có thể ‘ăn nói với đời’. Sách đầu giường của
nhà Nho, hồi này, không phải là văn chương cử tử nữa. Phan Bội Châu đọc binh thư của Tôn, Ngô, của
Gia Cát; đọc sách chính trị trong các tập ‘tân thư’ của thời đại: Khang
Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng, Nghiêm Phục v.v...” [11]
- “Phan Bội Châu với một
số đồng chí bắt đầu xây móng cho hội ‘Duy Tân’.
Trong lịch sử chống thực
dân Pháp của nước ta, đây là lần đầu tiên một cuộc vận động cách mạng có một tổ
chức tương đối cẩn mật, một chương trình cụ thể.
Lập trường chính trị cố
nhiên còn hết sức mập mờ về vấn đề cơ sở giai cấp. Nhưng nhà lãnh tụ Hội Duy
Tân quả tình không phải là người còn quyến luyến với chủ nghĩa bảo hoàng, với
chủ nghĩa quân chủ theo lập trường các nhà cần vương lớp trước. [12]
- “trong chính kiến của
Phan Bội Châu, con bài Cường Để không phải là một cứu cánh; nó chỉ là một
phương tiện” [13]
- “Dân không còn nữa,
mà chủ cái gì?” (Tham khảo: Phan Bội Châu
và Phan Chu Trinh – Tôn Quang Phiệt – NXB Văn Sử Địa, 1957. [14]
- “Phan Bội Châu từ
ngày mới bắt tay vào công tác cách mạng đã có một chủ trương rõ rệt: tập hợp mọi
lực lượng, liên hiệp mọi tầng lớp nhân dân để chống Pháp. Đó là một chủ trương,
tuy Sào Nam chưa hề tuyên bố rõ rệt về lập trường chính trị dân chủ”. [21] Lưu
ý là: “tư tưởng Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, ở Trung Quốc, chỉ là tư tưởng bảo
hoàng” [21]
- “từ ngày lập Hội Việt
Nam Quang phục trở về sau thì Phan Bội Châu đi hẳn theo chủ nghĩa dân chủ tư sản.
Và từ trước đến sau, Phan Bội Châu vẫn chỉ có một chủ trương: là đánh thực dân
để cứu nước. Lập trường dân chủ của Phan có phần mập mờ” [22]
- “Trong thái độ và hoạt
động chính trị của họ Phan, cố nhiên, cũng có chỗ đáng phê bình. Có một thời
gian, Phan Bội Châu đã viết Pháp Việt đề
huề luận. Đó là một vết tư tưởng đáng tiếc trong tư tưởng chính trị của một
người lâu nay vẫn chủ trương chống Pháp triệt để” [22]
- “trong sự nghiệp
Phan Bội Châu, văn chương cũng là một hoạt động gắn chặt với đời sống chính trị
của nhà ái quốc. Sự nghiệp văn chương của Phan Bội Châu chính là một bộ phận
trong công tác cách mạng của nhà chí sĩ” [25]
II. Đời sống văn hóa và xứ Nghệ vào khoảng cuối thế kỉ
trước. Cốt tính xứ Nghệ trong Phan Bội Châu.
“Lòng yêu nước thương
nòi, chí căm hờn đối với lũ “dị tộc xâm lăng” bị kích thích đến tột độ. Nhà nho
hoang mang, hoài nghi với ‘sở học’ của mình, đau đớn với thời cuộc, suy nghĩ
trên kình nghiệm đấu tranh của các bậc tiên liệt và cân nhắc khả năng của mình,
của đồng bào, để tìm một con đường cứu quốc. Dần dần, đọc ‘tân thư’, hấp thu tư
tưởng mới, bắt tay vào công tác cách mạng. Văn chương thành hẳn một phương tiện
để phục vụ cho công tác cách mạng” [28]
“Trường ốc ngày xưa
yêu cầu ở thí sinh ký tính (sự nhớ) hơn là ngộ tính (sự hiểu). Trước hết phải học
thuộc lòng. ... “Thi
thiên, phú bách, văn sách năm mươi”
‘Di biểu’ của Nguyễn Tri Phương, của Hoàng Diệu, thư từ,
văn chương của Phan Đình Phùng, là những tiếng khóc thảm thiết trong đám ma chay tiễn
tống cho chế độ phong kiến vừa qua đời được chút ‘mồ yên mả đẹp’. Sách của Phạm
Phú Thứ, của Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ có một nội dung mới mẻ hơn.
Nhưng vấn đề cứu quốc chưa hề được nêu lên một cách toàn diện. [32]
“Đọc sách thánh hiền Á
Đông, mới học được chữ trung quân.
Nhưng về sau... đọc nhiều sách ngoài, biết chứ ái quốc còn nặng hơn chữ trung
quân.” – Tập án ông Phan Bội Châu,
tr.16
“Sự tiếp xúc với các
nhà cải lương và các nhà
cách mạng ở Trung Hoa, ở Nhật Bản một lần nữa đã đổi mới hẳn lời văn và
tư tưởng của nhà chí sĩ cách mạng Việt Nam. Văn chương chứ hán của Phan Bội
Châu sẽ hùng hồn, lưu loát, khác hẳn với lối viết khúc mắt, nặng nề của của các
nhà danh nho lớp trước ở nước ta. Phan Bội Châu sẽ vận dụng mọi đề tài trong lịch
sử thế giới, lịch sử nước nhà, trong đời sống chính trị và xã hội, ghi chép mọi nét quốc sỉ, quốc thù vào trong mọi hinh thức văn học, để đánh mạnh vào cảm
tính của lớp thanh niên học thức hồi đó. Bấy nhiêu thu hoạch mới đã cởi mở cho
tư tưởng và ngòi bút của ông đồ nho lâu nay được đào tạo quá kỹ trong khuôn khổ
của văn chương cử tử. Bút pháp cũng như tình cảm và tư tưởng đã được giải thoát
đến một trình độ phóng khoáng, tự do, sung sướng và mạnh mẽ hơn ngày còn ở
trong nước” [33]
“Kẻ làm quan nhất tự
cách trùng!
Nhưng khi chưa thành đạt,
thì một ông đồ nho nghèo vẫn sống rất gần với nhân dân. Các ông đồ xứ Nghệ, về
phương diện này, có thể nói là rất “nhân dân”. Phan Bội Châu từ nhỏ đến ngày
thanh niên, đến trước ngày bỏ nước đi ra ngoài, vẫn luôn luôn sống trong xã hội
nông thôn, với nền kinh tế tự cung tự cấp, sản xuất tiểu quy mô, của xứ Nghệ.
Điều kiện sinh hoạt vật chất, văn hóa và chính trị của xứ sở đã ảnh hưởng đến
cá tính và văn chương của Phan Bội Châu”. [34]
“Cái đẹp của xứ Nghệ
không phải ở nơi cánh đồng phì nhiêu, không phải ở trong màu mè của thổ nhưỡng,
trong ánh sáng và khí hậu của thời tiết. Cái đẹp của Nghệ - Tĩnh là ở nơi núi
non hùng vĩ, ở nơi sông sâu, nước trong, với những cảnh vật bao la” [36].
- Con người xứ Nghệ:
“can đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lính, kiên quyết đến khô khan, và tằn tiện
đến ... cá gỗ” + “yêu chuộng giản dị, thật thà, chắc chắn. Nhân dân Nghệ -Tĩnh
cũng là những người rất hăng hái, rất bền bỉ trong tinh thần sùng bái anh hùng,
yêu chuộng lí tưởng. Người nông dân xứ Nghệ cũng là người lính luôn luôn can đảm,
sẵn sàng hi [37] sinh cho nghĩa vụ cho đất nước”.
=> “Phan Sào Nam, từ
thuở nhỏ, đã rất hâm mộ những danh nhân xưa, những nghĩa sĩ cùng một thời đại, ở
trong nước, trong xứ sở như Hầu Tạo, Đầu Xứ Thái (Hoàng Phan Thái), như Hoàng
Diệu, như Phan Đình Phùng.” [38]
- “trong sự sùng bái
chính nghĩa, nhiều nhà nho [xứ Nghệ] nổi tiến về thái độ kiên cường. Nguyễn Biểu,
Phạm Nguyễn Du (Vĩ Khiêm) là những gương ‘cô trung’ mà mọi người đều biết. Chữ kiên của nhà nho có khi đi tới gàn dở. Đầu thế kỷ này, vào khoảng trong
ngoài năm 1910, người ta còn thấy một ông cụ đồ đầu năm vẫn ‘khai bút’ với niên
hiệu Hàm Nghi” (bất chấp đã thay đổi: Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân)
[39]
=> “Chắc rằng tự
ngày bé, giữa hai buổi học tập, cậu sinh đồ Phan Văn San nhất định cũng có thể
ngâm nga, tâm niệm những tác phẩm bằng chữ Hán hoặc bằng tiếng Việt của những bậc
tiền bối như Đặng Dung, như Nguyễn Biểu, Phạm Vĩ Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Hành,
Nguyễn Công Trứ, Hoàng Phan Thái, Phan Đình Phùng, nói về nghĩa vụ của con người,
về trời đất nước non, về đời sống nông thôn của nước nhà...” [40]
- “Đời sống tinh thần
của nhân dân Nghệ Tĩnh dưới chế độ phong kiến, cũng như tất cả các tỉnh khác của
nước Nam, cố nhiên đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung – quốc [40]. (...) Nhưng
xứ Nghệ cũng là địa phương còn bảo tồn được khá nhiều bản sắc của dân tộc. Xứ
Nghệ có ma quỷ, thần linh của nó” [41]
“Thanh cậy thế, Nghệ cậy
thần!”. Thanh Hóa là đất đế vương. Nghệ - Tĩnh là đất linh thần. Thần xứ Nghệ
phần lớn đều là những nhân vật lịch sử. Lịch sử Nghệ - Tĩnh luôn luôn gắn chặt
với lịch sử nước nhà trong các thời kì khủng hoảng, bi đát của dân tộc. Người xứ
Nghệ vẫn tự hào với những di tích anh dũng và những nhân vật lẫy lừng của xứ sở” [44] (...) Và trong các huyện hạt Nghệ - Tĩnh
không có một huyện nào là không có ít nhiều kỉ niệm lịch sử, một bức thành đất
đã khởn mẻ, một toàn đền, một ngôi mộ, một tấm bia, dấu vết của những nhân vật hiển
hách ngày xưa” [45] => ‘Chúng ta có thể tin rằng: từ ngày còn bé, trên con
đường đi học, tìm thầy tìm bạn, từ hạt này qua hạt kia, trong tỉnh nhà, cậu đồ
họ Phan, những lúc dừng chân vãn cảnh trước bấy nhiêu vết tích người xua, chắc
chắn [46] là đã có khá nhiều dịp suy nghĩ về ỹ nghĩa của sự sống, của cái chết,
về quan niệm một cuộc đời ‘bất hủ’ theo luân lí nhà nho” [47]
- “Cho đến cuối thế kỉ
trước, trong ‘học thuật’ của nước ta, sự bồi dưỡng cho thanh niên về văn chương
tiếng Việt chưa hề bao giờ được nêu thành một vấn đề giáo dục. Chính sách văn
hóa của phong kiến Việt Nam bộ lộ một tinh thần nô lệc rõ rệt đối với văn hóa
Trung Quốc. Đồng thời nó cũng hết sức khinh miệt tiếng nói và nghệ thuật của
dân tộc. Đào tạo trong Nho học, Phan Bội Châu, ngay trong các tác phẩm quốc văn,
cũng luôn luôn chịu ảnh hưởng của lối học
cử tử. Trước hết, nhà nho ái quốc của chúng ta là một người viết tiếng Việt bằng
chữ nôm. Chúng tôi không có ý phân biệt trong văn học Việt Nam một thứ ‘văn thơ
chữ nôm’ và một thứ ‘văn thơ chữ quốc ngữ’. Văn học, trước hết là một công
trình nghệ thuật xây dựng với tiếng nói.
Còn chữ thì chỉ là một phương tiện
ghi chép tiếng nói, và văn chương. Nhận định trên kia chỉ có nghĩa là nói rằng:
Phan Bội Châu, khi viết
văn tiếng Việt, vẫn dùng bút lông và viết bằng chữ khối vuông, mà không dùng
bút sắt, không viết theo lối chữ phiên âm bằng chữ la tinh. (...)
Phan Bội Châu cũng đã vận dụng mọi thể
văn trong văn học Trung Quốc, vào văn học Việt Nam: Văn, thơ, từ, phú,
tiểu thuyết... Mỗi quy luật chặt chẽ
của nhà trường như niêm, luật, đối v.v... luôn luôn được tôn trọng như những pháp bửu thiêng
liêng. Tự liệu trong văn thơ của Phan Bội Châu, phần khá lớn là vay mượn trong
văn học cổ điển Trung Quốc. Với trào lưu mới của tư tưởng ‘duy tân’ trong văn
chương chữ Hán của các nhà ‘tân học’ Trung Hoa cuối thế kỉ trước, và đầu thế kỉ
này, Phan Bội Châu lại nhập cảng cho văn học Việt Nam khá [47] nhiều từ ngữ và
khái niệm tư tưởng cận đại. Bấy nhiêu từ ngữm điển tích của nước ngoài sẽ dồn dập
bay nhảy trên các câu văn chương thể cũ, trên các vế đối, nghe ra là lạ, có lúc
dường như chối tai, nhưng thường thường thì vẫn lưu loát trơn tru. Ấy là vì tác
giả đã cố gắng rất công phu để uốn nắn những từ ngữ khá xa lạ và rắn rỏi đó vào
trong khuôn khổ của từ chương cũ bằng tiếng Việt ”. [48]
- Đặc điểm của đời sống
văn hóa dân gian xứ nghệ: nói trạng [49]; đò – chợ [49-50] – hát phường vải
[50] – hát cô đầu [50-51-52] => “Phan Bội Châu cũng sẽ nhiều lần lợi dụng
hình thức biến thể củ ca trù để biểu hiện một nội dung tư tưởng mới, tư tưởng cách
mạng và chủ nghĩa anh hùng của thời đại mới” [53]. – hát dặm, hát ví, hát phường
vải, hát đò đưa [53-54] => “Lớp nhà nho Nghệ - Tĩnh đồng thời với Phan Bội
Châu đều biết rằng: từ ngày thanh niên, Phan tiên sinh vẫn thích hát dặm, hát
phường vải. Những lúc được cút nhàn rỗi, hễ thấy đám hát là bao giờ tiên sinh
cũng tới tham gia” [54]
“Điều dễ dàng nhận thấy
là trong khi hoạc thuật của chế độ phong kiến không hề để ý đến việc bồi dưỡng
cho nghệ thuật tiến nói của dân tộc thì những buoir tiêu khiển trong lối hát đó
cũng là những diepj để cho đầu óc cậu đồ nho đang khô khan trong lối học từ
chương uyên bác có thể tắm gội ít nhiều vào trong ngọn nguồn mát mẻ của dân ca.
Rồi đây trong văn chương của họ
Phan, dân ca, cũng như lịch sử đấu tranh của dân tộc, của anh hùng ngày xưa, sẽ
có thể cung cấp những văn liệu, những nguồn cảm hứng hoặc trực tiếp hoặc gián
tiếp, với một ý vị xanh tươi, mát mẻ, lành mạnh của đời sống và cảnh vật thôn
quê” [56].
III Công trình sáng tác của Phan Bội Châu
Ba thời kì sáng tác:
- Thời kì thứ nhất: từ
khi viết văn đến khoảng 1905 – 1906
- Thời kì thứ hai:
1905 – 1925
- Thời kì thứ 3: từ
khi bị bắt đến khi mất [60-61]
1. Thời kì thứ nhất:
- Bình Tây thu Bắc
(1883)
- Song Tuất lục (1886)
- Lưu cầu huyết lệ tân
thư (1903) [63] 1904 [64] do chính Phan Bội Châu cho biết trong niên biểu: giáp
thìn. “Chương trình cứu [63] quốc của ông Giải San hồi này mới chỉ nói đến dân trí, dân khí mà không hề đả động đến vấn đề dân quyền, dân sinh. Ông
giải nguyên khoa Tý trường Nghệ vẫn tin rằng: chỉ với một tình cảm sùng bái lí
tưởng và chỉ cần mở mang trí khôn, đào tạo nhân tài là có thể giải quyết ổn thỏa
vấn đề cách mạng Việt Nam”.
2. Giai đoạn 2
3. Giai đoạn 3: “chỉ một
ít khái niệm đạo đức cũ, chủ nghĩa anh hùng cá nhân chung chung, hay lối văn trữ
tình ngạo nghễ, phóng khoáng, và ngay cả lỗi thơ trào phúng đả kích kiểu nhà
nho ngày trước cũng không đủ sức kích thích và hướng dẫn tinh thần cách mạng
trong thời đại này nữa” [79].
IV. Bài học trong kinh nghiệm sáng tác của Phan Bội
Châu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét