Vấn đề cái Tôi cá nhân trong văn học cho đến
nay vẫn là một đề tài mở, cho phép song
song tồn tại những cách lý giải và quan niệm khác nhau.
Từ
góc độ triết học, có thể nhận thấy: con người ở bất kỳ thời đại nào cũng có
chung những nhu cầu cơ bản. Một trong những nhu cầu cơ bản đó là nhu cầu được
sống với chính mình. Tuy nhiên, khả năng nhận biết những phương thức để đáp ứng
những nhu cầu này ở mỗi nền văn hóa, ở mỗi thời đại là khác nhau. Chính vì thế
cái Tôi cá nhân nói chung và cái Tôi cá nhân trong văn học nói riêng là một
hiện tượng cần được nhận thức trong những tồn tại lịch sử cụ thể. Văn học nghệ
thuật thời trung đại, một mặt, chịu ảnh hưởng của Nho giáo (thi dĩ ngôn chí,
văn dĩ tải đạo); mặt khác, với tư cách là tiếng nói của tinh thần của thế
giới tâm hồn văn học nghệ thuật còn là mảnh đất để cái Tôi cá nhân hiện diện. Điều
này là cần thiết không phải chỉ bởi đặc thù của hoạt động sáng tạo nghệ
thuật: luôn gắn liền với vấn đề phong cách, cá tính sáng tạo, gắn liền với
những trải nghiệm của cá nhân người cầm bút. Cơ bản hơn, sự hiện diện của cái
Tôi cá nhân trong văn học nghệ thuật còn là một nhu cầu để cân bằng cho đời
sống tinh thần của con người, giúp anh ta được sống với chính mình, tạm gác
bỏ những ràng buộc, những giới hạn của con người chức phận luân thường. Cách đặt
vấn đề như trên giúp chúng ta nhìn nhận về cái Tôi cá nhân không chỉ như một
phương diện của nội dung tác phẩm mà còn có vai trò như một tiêu chí để phân
biệt hai loại văn chương trong văn học trung đại: văn chương chức năng và văn
chương nghệ thuật.
Dấu
vết của loại hình văn chương chức năng vẫn tồn tại ở Tản Đà một cách khá rõ nét
(chủ yếu ở những tác phẩm thuộc loại văn vị đời) nhưng những sáng tác có ý
nghĩa văn học sử quan trọng nhất của ông lại thuộc về loại hình văn chương nghệ
thuật. Chính ở những tác phẩm thuộc loại này mà cái Tôi cá nhân bắt đầu hiện diện như một tiêu
điểm thẩm mỹ trong những sáng tác của Tản Đà qua hai phạm trù thẩm mỹ chính:
Sầu - Mộng
1.
Không phải đến Tản Đà văn học Việt Nam mới biết đến chữ sầu. Trong văn học
truyền thống sầu là một phạm trù thẩm mỹ và ý nghĩa của nó không chỉ là một
tầng vỉa nội dung mà, như trên đã nói, còn là một tiêu chí quan trọng để phân
biệt giữa văn học mang tính nghệ thuật phân biệt với bộ phận văn học chức năng.
Trong bộ phận văn học chức năng con người chức phận đóng vai trò chủ đạo. Tư
thế quan phương là tư thế đã được quy định từ trước trong các tác phẩm loại
này. Một cách tự nhiên, cái Sầu cũng như những cảm xúc tự nhiên khác của con
người cá nhân không có lý do để hiện diện. Nhưng trong những tác phẩm nghệ
thuật thì khác. Ở đó con người được sống với cái Tôi riêng tư của mình với
những hoài vọng những day dứt, nỗi đam mê và sự khổ đau, những dự phóng và cả
những bất thành, dang dở. Dễ hiểu vì sao cái Sầu luôn bàng bạc trong những tác phẩm mà ở đó tư thế quan phương
được thay thế bằng tư thế của một cá nhân với những nếm trải chân thực trong
cuộc đời. Sầu, vì thế, là một ô cửa sổ để nhìn vào thế giới của cái Tôi trong
văn học trung đại.
1.1 Mạch sầu của Tản Đà,
trước tiên, bắt nguồn từ mạch sầu truyền thống. Đấy, thường bắt gặp một cách
phổ biến, là cái sầu về kiếp người ngắn ngủi. Tản Đà chấp nhận bi kịch này như
một tất yếu của kiếp người, không còn dằn dỗi ông chỉ ngậm ngùi than thở: Ấy
ai quay tít địa cầu/Đầu ai nửa trắng nửa pha mầu xuân xanh/Trông gương
mình lại ngợ mình/Phải chăng vẫn giống đa tình ngày xưa ( Bài hát
xuân tình). Càng về sau này, cảm giác về sự hữu hạn của kiếp người càng
giày vò nhà thơ. Nó khiến ông bâng khuâng trước cảnh tượng của bông hoa: Đương
ở trên cành bỗng chốc rơi (Hoa rụng); chạnh lòng trước ngôi mả cũ
ven đường; ngao ngán, thậm chí, hoảng sợ khi phải đối diện với thực cảnh: Tuyết
nhuộm đầu xanh, tóc bạc phơ (Thơ thẩn)... Nhận biết đó là một quy
luật chẳng thể đổi khác, Tản Đà thể hiện nỗi tiếc đời bằng lời van xin thời
gian chậm bước: Thương thay! xuân chẳng đợi chờ/Tiếc thay! xưa những hững hờ
với xuân/Trăm nghìn gửi lại Đông quân/Hãy khoan khoan tới, hãy dần dần lui (Xuân
cảm)
Ý
niệm về kiếp người ngắn ngủi mài sắc cảm nhận về thời gian khiến Tản Đà ngay cả
khi khai thác những đề tài rất quen thuộc trong truyền thống vẫn có được những
nét riêng của mình trong cách khai triển tứ thơ và phô diễn cảm xúc. Cái làm
nên không khi bâng khuâng đặc biệt trong Tống biệt không gì khác là
những cảm giác về thời gian được cài suốt mạch bài thơ:
-Nửa
năm tiên cảnh
Một bước trần ai
-Trời đất
từ đây xa cách mãi
-Nghìn
năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Cũng
như thế với Thu khuê oán - một đề tài không thể truyền thống hơn được
nữa nếu không muốn nói là rất dễ rơi vào sáo cũ và trên thực tế là Tản Đà đã có
những câu thơ rất sáo - thì chỗ thoát sáo của ông đấy là điểm nhấn trong cảm
nhận về thời gian ở khổ cuối: Ngày tháng đi chóng, năm canh trường/Lác đác
sao tàn lấp lánh gương/Trên trời Chức nữ cùng Ngưu lang/Một giải sông Ngân lệ mấy hàng. Hệ thống
ngôn từ và thi liệu vẫn là của truyền thống nhưng những cảm nhận thời gian
trong một loạt những trích dẫn trên dường như là sự báo trước những tứ thơ chất
đầy ám ảnh thời gian trong thơ Mới sau này.
1.2 Cái
sầu về kiếp người ngắn ngủi là cái sầu của nhân sinh phổ quát. Với Tản Đà, mạch
sầu này của ông được phô diễn một cách thấm thía hơn khi nó gắn với cái sầu về
thân thế sự nghiệp - nỗi sầu được chắt ra từ những trải nghiệm rất riêng của
cuộc đời Tản Đà. Là người ôm ấp nhiều cao vọng nhưng thực tế cuộc đời lại khiến
Tản Đà nhiều phen phải đối diện với sự lỡ dở, thất bại. Nếu để ý kỹ, càng về
cuối đời - khi mà cảm nhận về quỹ thời gian của đời người cất tiếng ngày một
riết róng - thì thơ văn của Tản Đà (hơn bao giờ hết) càng ngậm ngùi nỗi buồn
của một kẻ trắng tay với cuộc đời. Mỗi độ năm tận, xuân về lại khiến Tản Đà
thêm se sắt bởi nó nhắc nhở ông về những gì dang dở, bất thành. Một năm trước
khi mất, trong ngày Tết ông Công, kiểm định cuộc đời mình, Tản Đà viết những
dòng thành thực nhất cũng là chua xót nhất: Khi làm chủ báo lúc viết mướn/Hai
chục năm dư cảnh không cùng/Trần gian thước đất vẫn không có/Bút sắt chẳng hơn gì bút lông/Ngày xanh như ngựa đầu xanh bạc/Chán cả giang hồ hết cả ngông (Tiễn
ông Công lên chầu trời). Cũng chính mạch sầu này trở thành cái nhìn
nghệ thuật để Tản Đà viết Giấc mộng lớn -cuốn tự truyện về cuộc đời
mình. Nhịp chính trong mạch trần thuật của Giấc mộng lớn là những
đổ vỡ trong cuộc đời của Tản Đà. Những sự kiện khác chỉ được kể có tính chất điểm
xuyết. Cứ sau mỗi lần thất bại, vấp ngã lại thấy Tản Đà thêm một lần chùng
xuống mệt mỏi. Kết thúc tác phẩm, thật thấm thía nhưng cũng thật chẳng thanh
thản chút nào khi Tản Đà phải đối diện với chân dung tự họa của mình qua đôi
câu đối có ý nghĩa như một tổng kết:
Hơn
mười năm bút sắt, bút lông, hao giấy mực chẳng ích gì cho xã hội
Trải
ba xứ đường xe đường bể, trụi râu mày còn thẹn với giang san
Khép
lại cuốn sách là hình ảnh một kẻ không nhà - một khách giang hồ ngoài ý muốn,
mỏi mệt trong mọi ước vọng. Một kết thúc mở, nhưng là cho những bi kịch mà ở điểm
mút của nó là một cái chết bất thường trong cảnh túng quẫn. Chung cuộc, kinh
nghiệm cuộc đời mà Tản Đà thấm thía hơn cả là một trải nghiệm : “ở đời, chỉ những sự buồn
mới là thật” (Xuân như mộng). Ta sẽ còn đề cập đến ý nghĩa mỹ
học của hiện tượng này ở phần sau trong sự đối sánh với cõi mộng. Ở đây chỉ xin
lưu ý: việc những chất liệu có tính chất tiểu sử của Tản Đà đi vào tác phẩm văn
học qua cửa ngõ của cái sầu như trên cho thấy sầu là một phương tiện để cái Tôi
thân thế của Tản Đà xuất hiện với tư cách là một phương diện của cái Tôi cá
nhân được ý thức.
1.3
Cô đơn là một âm giai khác của nỗi sầu mà qua đó cái Tôi cá nhân trong những
sáng tác của Tản Đà hiện diện. Nhà Nho trong truyền thống do ý thức về phận vị đặc
tuyển của mình, do tinh thần tự nhiệm nên những nỗi “tiên ưu” (Nguyến
Trãi), những cảnh ngộ “ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ” (ta có tấc lòng không
biết nói cùng ai - Nguyễn Du) khiến họ không ít phen phải đối diện với nỗi cô đơn.
Mạch khác của nỗi cô đơn được khơi nguồn từ cảm hứng thương thân, xót thân ở Hồ
Xuân Hương, nàng chinh phụ, người cung nữ... Sự đa dạng là hiển nhiên nhưng vẫn
có một mẫu số chung cho những sầu muộn cô đơn trong truyền thống: chúng thuộc
phạm trù cái bi. Đấy là cái cô đơn bi phẫn, ưu uất. Đến Tản Đà, cái cô đơn đã bắt
đầu có những nét mới lạ trong cách phô diễn, trong diện mạo. Diễn tả cái cô đơn,
ngay cả khi bi lụy nhất, Tản Đà cũng thiên về cái réo rắt, buông lơi. Tâm sự cô
đơn vì thế không nén lại, u uẩn mà thường chỉ như một hơi thở nhẹ thoát, bảng
lảng: Chiều quá khách chơi về đã vãn/Gốc cây thơ thẩn một mình ngồi (Chơi trại hàng hoa), Mạch sầu canh
vắng như tuôn/Nhớ ai nước nước non non bạn tình (Đêm đông hoài cảm), Những ai mặt biển chân giời/Nghe mưa ai có
nhớ nhời nước non (Mưa thu đất khách)
Bắt gặp nhiều hơn ở Tản Đà là
cái cô đơn trong điệu sầu man mác và không hiếm khi nó được vờn vẽ trong một
khung cảnh thiên nhiên đầy gợi cảm: Con đường vô hạn khách đông tây/Ta nhớ
ai mà đứng mãi đây (Quê nhà chơi mát
cảm hứng), Suối tuôn róc rách ngang đèo/Gió thu bay lá bóng chiều về tây/Chung
quang những lá cùng cây/Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm (Vô đề)
Cái cô đơn ở đây rõ ràng
không còn thích thú với cung bậc bi thương, chất chứa vẫn thường bắt gặp trong
thơ cổ điển mà bắt đầu hướng tới cái du dương, êm ái thi vị đầy mới mẻ. Dường
như bắt gặp ở đây một xu hướng mỹ lệ hóa cái cô đơn và đồng nhất nó với những
cảm giác bâng khuâng mơ hồ, thậm chí là mơ mộng trong thế giới nội cảm của nhân
vật trữ tình. Những nỗi sầu và cô đơn như thế khiến người ta thích thú nếm trải
và khám phá. Cái Tôi cá nhân trong bước khởi đầu tìm kiếm chính mình đã hiện ra
trong thơ Tản Đà với gương mặt của những nỗi cô đơn duyên dáng và tình tứ như
thế. Nó báo trước cho cái tôi - cảm xúc và sự say mê đặc biệt với những cô đơn,
sầu khổ của thơ ca giai đoạn tiếp theo.
2/ 2.1 Cùng với sầu là mộng. Ngay từ rất sớm, trong
lời tựa cho cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình: Giấc mộng con, Tản Đà đã
tự gọi mình là người mộng. Chỉ cần nhìn vào nhan đề của các tác phẩm (Giấc
mộng con I và II, Giấc mộng lớn, Xuân như mộng, Nhớ
mộng...) cũng có thể dễ dàng nhận thấy: cõi mộng là không gian nghệ thuật đặc
trưng cho thế giới nghệ thuật của Tản Đà. Không ít lần ông bàn luận và triết lý
về nó. Trong quan niệm của Tản Đà, con người sống trong hai thế giới. Thế giới thứ
nhất là thế giới của những gì đã trải biết. Ông gọi đó là “cảnh ngộ ở đời”.
Nhưng còn có một thế giới khác, thế giới của những cảnh ngộ: “thân thể chưa
trải biết mà ý thức đã đi trước” - những trải nghiệm thuần túy chỉ có trong
tưởng tượng. Đây chính là thế giới của mộng. Được gợi ý từ nhãn quan “tề vật
luận” của Trang tử, Tản Đà phân biệt: “mộng là cái mộng con, đời là cái mộng
nhớn”. Quan điểm về cõi mộng, một lần khác, được thể hiện đầy đủ và hệ
thống hơn qua lời của Chu Kiều Oanh:
“Con người ta ở trong vũ
trụ, hình thể có giới hạn mà tinh thần không có giới hạn. Cho nên lấy hình thể
mà nói thời ngoài các sự vật hiện tại ở trước mắt, đều là không có; lấy tinh
thần mà nói thời phàm cảm giác còn đi tới, tức không phải giả mà là chân”
Mộng trong quan niệm của Tản
Đà ở đây có hai điểm đặc biệt quan trọng. Thứ nhất: mộng thuộc về cõi tinh
thần, mà cõi tinh thần là “không có giới hạn”. Vậy nên, thế giới của
mộng là không có giới hạn, không bị ước thúc bởi những quy tắc của thế giới
hiện thực. Thứ hai: mặc dù không thuộc về thế giới hiện thực ở đời nhưng những
trải nghiệm trong cõi mộng cũng là một hiện thực - nó “không phải giả mà là
chân”.
Điều gì đã khiến Tản Đà quan
tâm đến cõi mộng đến độ phải tường giải, thuyết minh về nó một cách trực tiếp
và có hệ thống đến như thế trong tác phẩm của mình? Không thể trả lời thấu đáo
câu hỏi này nếu không gắn nó với ý thức về cái Tôi. Trong tản văn của mình, Tản
Đà nhiều lần triết lý về cái gọi là “thằng người”. Ông nhận thấy đó là
một danh xưng cao quý và vì thế công khai giữ một thái độ khinh bạc với sự tồn
tại vô nghĩa của những kẻ: “chỉ từ lúc biết ăn cơm, mỗi năm mỗi nhớn lên;
lấy một, hai vợ; đẻ ba, bốn con; sống năm, sáu, bảy mươi tuổi; rồi chết, thời
nghĩ hơn con lợn kia bao nhiêu?” (Thằng người). Khó chịu đến mức ác
cảm với những tồn - tại - vô - nhân - xưng như thế nên dễ hiểu là Tản Đà chủ
trương: con người sống ở đời phải quan tâm đến việc: “nuôi cái tài sức, theo
cái ý thú, để làm xong cái phận sự mình”. Nhân vật Nguyễn Khắc Hiếu trong Giấc
mộng conI khẳng định: “Nếu không có riêng một ý thú, không định được một
đích hạn, thời như đội chiếc thuyền nan ra đứng trông cửa bể”. Cái ý thú,
cái đích hạn ấy, Tản Đà khao khát có được nó trong cuộc đời thực. Nhưng
trong khi chưa được thỏa nguyện, ông có thể tìm thấy nó, được sống với nó một
cách thật thỏa nguyện trong cõi mộng. Hai thuộc tính của cõi mộng nói trên: chân
thực và không có giới hạn giúp ông được sống với những gì mà mình ao
ước, với những gì mà ông cảm thấy có ý nghĩa trong cuộc đời. Mộng với Tản Đà,
do thế, không gì khác là những thể nghiệm bằng tưởng tượng. Không bị ràng buộc
bởi những giới hạn trong cuộc đời thực, mộng là môi trường để cái Tôi cá
nhân hiện diện với những dự phóng để chiếm lĩnh thế giới lý tưởng, qua đó mà
nếm trải khám phá những kích thước, những chân trời mới mẻ.
2.2 Trong và bằng thơ văn,
Tản Đà theo đuổi những cuộc chơi cũng là những giấc mộng của riêng mình. Ông
tuyên ngôn về nó một cách tự tín và ngông ngạo: Chơi cho biết mặt sơn hà
/ Cho sơn hà biết ai là mặt chơi (Chơi Huế). Những cuộc
chơi của Tản Đà thật đa dạng và khoái hoạt . Có cái chơi của thơ rượu đầy ngất
ngưởng: Trời đất sinh ta rượu với
thơ/Không thơ không rượu sống như thừa (Thơ rượu). Có cái chơi trong thú giang hồ xê dịch - ở đó cái Tôi
của ông tìm thấy mình trong cảnh sắc non nước: Chơi Hòa Bình, Chơi
Huế, Nhớ cảnh cầu Hàm rồng...Cái mới mẻ trong những bài thơ nói trên
(dù chưa thật nhiều về số lượng) là tư thế của Tản Đà khi đến với thiên nhiên
như một khách du để tìm kiếm và thưởng ngoạn cái đẹp. Cảm quan nghệ sĩ
này bộc lộ rõ nhất trong những trang du ký bằng tưởng tượng của Tản Đà trong Giấc
mộng con I. Những địa điểm như hồ Erié, thác nước Niagara, những chiếc quạt
nước ở miền thượng lưu sông Madison...là những nơi mà Tản Đà chỉ biết đến qua
sách vở. Tuy nhiên chính khao khát phiêu du để kiếm tìm và thưởng ngoạn những điều
mới lạ đã khiến những trang viết của Tản Đà tràn đầy một cảm quan nghệ sĩ với
những rung động mãnh liệt. Nhờ vào đó cảnh vật phương xa hiện lên sống động
trong những màu sắc, âm thanh đầy quyến rũ. Phương xa hiện lên ở đây như một
chân trời đầy hấp dẫn, một tiếng gọi đầy quyến rũ đối với chủ thể. Nhu cầu
nhận biết về cái mới lạ đã trở thành dấu hiệu định tính của cái Tôi. Điều
này khiến cho thiên nhiên trong những trang mộng ký của Tản Đà tỏ ra còn hấp
dẫn và sinh động hơn cả những ghi chép theo lối kỷ thực về xứ lạ của Phạm
Quỳnh, Nguyễn Bá Trác - những người dù đã trực tiếp mắt thấy tai nghe về cảnh
sắc phương xa nhưng lại thiếu một cảm nhận từ lăng kính của một tâm hồn nghệ sĩ
đích thực.
Hấp dẫn và say mê Tản Đà hơn
cả là giấc mộng tình ái. Có cái tình bông lơn chòng ghẹo của khách đa tình
trong những bài thơ Đường luật hóm hỉnh như: Nhớ chị hàng cau, Đùa cô
sư, Bóp vú đau tay...Có cái tình thoảng qua trong cuộc đời bèo trôi
nước chảy không ràng buộc, không trách nhiệm của người khách với Vân Anh (Thề
non nước). Có cả cái tình luyến ái ngoài hôn nhân mà thanh tịnh của người
tri kỷ giữa Nguyễn Khắc Hiếu và Chu Kiều Oanh (Giấc mộng con). Nét đa
tình hiện lên rõ nhất trong Giấc mộng con II, ở đó bên cạnh Nguyễn Khắc
Hiếu không chỉ có Chu Kiều Oanh mà còn có rất nhiều những giai nhân khác. Cùng
với những mỹ nhân ấy, Nguyễn Khắc Hiếu uống rượu, theo “mệnh lệnh của mỹ
nhân” mà làm thơ, nghe “Chiêu quân đánh tỳ bà, Dương Quý Phi say rượu đứng
dậy múa. Tây Thi hát”. Tham lam hơn (và vì thế mà cũng thật đáng yêu) khi
ông dựng nên những cảnh “Dự tiệc có hơn trăm người mà chỉ có một mình mình
không phải là mỹ nhân”. Những cảnh yêu đương trong cõi mộng như trên làm
phát lộ cái Tôi đa tình, tục lụy nơi Tản Đà. Con người này lên tiên không phải để
thoát tục, để tìm thuốc trường sinh mà để tìm giai nhân, tìm vui, tìm ý thú của
chính mình.
Tất cả những miêu tả ở trên
cho thấy cõi mộng là không gian ở đó cái Tôi của Tản Đà phơi trải những dự
phóng, sở thích của mình. Mộng như thế là phương
tiện để thám hiểm những chân trời mới lạ trong thế giới tinh thần của cái Tôi.
Đây chính là ý nghĩa mỹ học mới mẻ của thế giới ảo mộng mà Tản Đà đem đến cho
văn học thời kỳ này. Bên cạnh đó thế giới mộng còn đảm nhận một chức năng khác.
Theo Nguyễn Khắc Xương, Chu Kiều Oanh là hình bóng của cô gái trong mối tình đầu
(cũng tên là Oanh) của Tản Đà. Cuộc tình trong đời thực, như chính Tản Đà thuật
lại trong Giấc mộng lớn, đã có một
kết thúc thật ngang trái. Không có được giai nhân của mình trong đời thực, cõi
mộng là nơi để Tản Đà được sống và nếm trải những hương sắc ngọt ngào của thế
giới tình yêu. Những mất mát trong đời
thực được bù đắp, nhân vật được sống với tất cả những gì mình khao khát, mơ ước
kiếm tìm. Sau này trên Nam Phong khi phê bình Giấc mộng con,
Phạm Quỳnh nhận xét về Tản Đà: “thân chẳng bằng mộng nên mộng cho cam thân”.
Lời lẽ không hẳn đã có sự cảm thông, đồng tình nhưng quả thật đã nói đúng một
chức năng đặc biệt trong cõi mộng của Tản Đà.
3. Đâu là mối quan hệ giữa hai phạm trù sầu
và mộng trong thế giới nghệ thuật của Tản Đà? Quan trọng hơn mối quan hệ này đem
lại những khám phá mới mẻ nào về cái Tôi cá nhân trong những sáng tác của Tản
Đà?
3.1. Trên những nét lớn, sầu và mộng là sự triển
khai những cảm nhận và khám phá về chính mình của cái Tôi trong hai thế giới:
hiện thực và lý tưởng hay nói theo ngôn ngữ của chính Tản Đà: trong giấc
mộng lớn và giấc mộng con. Việc đặt cạnh nhau của hai thế giới này
ngay lập tức cho thấy một sự tương phản gay gắt, một xung đột không thể hòa
giải. Cái Tôi trong thế giới của giấc mộng con khoái hoạt, buông phóng,
hăm hở, kỳ vọng bao nhiêu thì lại u uất, chán nản bấy nhiêu trong môi trường
của giấc mộng lớn. Sự di chuyển giữa hai thế giới này luôn đem đến cho
Tản Đà những hẫng hụt, xáo động đầy bất an bởi giữa chúng là vô vàn cách biệt.
Cứ mỗi lần tỉnh giấc mộng con để trở về với giấc mộng lớn Tản Đà lại thêm một
lần nuối tiếc. Nó làm nên nỗi Nhớ mộng rất đặc trưng cho Tản Đà: Giấc
mộng mười năm đã tỉnh rồi/Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi/Nghĩ đời lắm nỗi không
bằng mộng/Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời. Cái dư vị ngậm ngùi, bàng bạc
những tiếc nuối trong Tống biệt, về bản chất, cũng xuất phát từ cảnh
huống tỉnh mộng và nhớ mộng này. Đặc điểm trên khiến cho cái Tôi trong những
sáng tác của Tản Đà không còn là một gương mặt thuần nhất. Nó là cái Tôi ngơ
ngác đi tìm mình trong sự bất hòa giữa thế giới hiện thực và lý tưởng. Tình
trạng này biến nó thành một tồn tại cô đơn, nhiều ẩn khuất. Dễ hiểu là vì sao
từ sau Tản Đà cái Tôi sẽ trở nên cực kỳ nhạy cảm với trạng thái cô đơn và sầu
khổ trở thành nỗi đam mê đặc biệt trong văn học. Không gì khác đó chính là dung
môi để cái Tôi bộc lộ mình một cách trọn vẹn nhất. Lẽ tự nhiên những khái quát
trên được nhìn thấy rõ nhất trong các tác phẩm của văn học lãng mạn nhưng cũng
không nên quên rằng cả trong những tác phẩm hiên thực sự mâu thuẫn giữa hiện
thực và lý tưởng sẽ tiếp tục được đi sâu và thể nghiệm trong những khám phá về
cái Tôi cá nhân. Thậm chí, sự thể nghiệm này không chỉ đóng khung trong lĩnh
vực văn chương. Sau này, trước cái chết của Tản Đà, tất cả giới cầm bút lúc đó đều
bộc lộ một sự xúc động chân thành. Người ta ngưỡng mộ một tài năng, ngậm ngùi
về một đấng “trích tiên” cuối cùng nơi dương thế nhưng trong đó không
phải không có ít nhiều tâm sự của những kẻ “đồng bệnh tương liên”. Bằng
chính cuộc đời của mình họ thấm thía bi kịch của Tản Đà: bi kịch về sự thất thế
của những giá trị đẹp đẽ trong một xã hội tư sản hào nhoáng nhưng cũng thật tàn
nhẫn lạnh lùng. Khi cái Tôi ý thức về mình thì nó cũng đồng thời nhận diện một
cách đầy đủ nhất những giới hạn của mình trong đời sống hiện thực.
3.2. Đâu là điểm thống nhất của cái Tôi giữa tất cả
những đối lập sầu - mộng nói trên?
Trong lời tựa cho tiểu thuyết Giấc mộng lớn, Tản Đà
công khai bộc lộ quan điểm: “...nghĩ như người ta sinh ra trong đời, không
ai dễ có mấy thân, cho nên mình yêu mình là cái tình chung của nhân loại. Một
cái yêu mình đó, không cứ đẹp hay xấu, hay hay dở, mà yêu thời cứ yêu”. Ba
chữ “mình yêu mình” chính là điểm thống nhất của ngòi bút Tản Đà khi
viết về cái Tôi của mình trong mọi biểu hiện. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay
Tản Đà đã lấy tên khai sinh của mình làm tên nhân vật chính. Cả trong Giấc
mộng lớn và Giấc mộng con dù khi viết về kỷ niệm tuổi thơ, thói quen
ẩm thực hay những phiêu lưu trong ảo mộng... cái Tôi của Tản Đà luôn xuất hiện
với những chi tiết, những sở thích rất riêng tư, đôi khi vụn vặt nhưng bao giờ
cũng được thuật lại một cách đầy hứng khởi, say mê. Mọi cảnh huống trong tác
phẩm của Tản Đà chỉ là cái cớ để ông giới thiệu, phô diễn về cái Tôi của mình.
Thú vị nhất là hư cấu của Tản Đà về Chu Kiều Oanh. Thực chất nhân vật này là
một hóa thân của chính Tản Đà trong hình hài của một giai nhân. Tình yêu, sự
tán thưởng, kỳ vọng của Chu Kiều Oanh dành cho Nguyễn Khắc Hiếu là một cách để
Tản Đà bộc lộ sự say mê của ông đối với chính bản thân mình. Có
thể nói đến một Narcissism trong những sáng tác của Tản Đà. Nhà văn
công khai bộc lộ sự say mê đối với bản thân mình, lấy cái Tôi của mình làm chất
liệu cho mọi khám phá và miêu tả nghệ thuật. Sự tôn thờ và say mê cái Tôi khiến
cho Tản Đà và các tác phẩm của ông trở nên đặc biệt khác lạ. Sự ngông nghênh
của nó khiến người ta tán thưởng nhưng cũng có không ít những dè dặt, thậm chí
là khó chịu trong tiếp nhận. Trên Nam Phong, Phạm Quỳnh bình luận một
cách phẫn nộ: “người ta phi cuồng thì không ai trần truồng đi ngoài phố. Nhà
làm sách cũng vây, không ai đem thân thế mình mà làm truyện cho người đời xem,
nhất là tự mình tán tụng cho mình thì lại càng khó nghe lắm nữa”. Tuy
nhiên, chính cái đặc điểm mà Phạm Quỳnh cực lực lên án nói trên lại là đóng góp
mới mẻ nhất, quan trọng nhất mà Tản Đà đã đem đến cho văn học: cái Tôi - đến
Tản Đà - đã trở thành đối tượng thẩm mỹ trực tiếp và duy nhất cho
sự quan sát và miêu tả của nghệ thuật.
Mặt khác, với quan niệm: “không cứ đẹp hay xấu, hay
hay dở, mà yêu thời cứ yêu” đã khiến sự say mê cái Tôi ở Tản Đà gắn liền với sự
thành thực khi quan sát và mô tả bản thân. Như ta đã thấy ở trên, Tản Đà không
hề tô vẽ, ngượng ngập khi nói về mình ở những khía cạnh riêng tư nhất. Đây là
lý do giải thích vì sao cái Tôi của Tản Đà như hiện lên trực tiếp trong tác
phẩm với những chi tiết thuần túy tiểu sử. Sự thành thực khiến cho cái Tôi hiện
lên khi thì bông lơn, tự trào khi lại ngộ nhận một cách hồn nhiên, đa tình mà
cũng rất đa đoan với những nỗi riêng, những tâm sự. Cái Tôi vì thế hiện lên với
rất nhiều những màu sắc, rất đa dạng và cũng rất sinh động, có hồn. Đây là cơ
sở để cái Tôi bắt đầu xuất hiện trong khuôn khổ đời thường, được xét đoán bình
giá bằng thước đo của con người bình thường. Người ta thích thú phát hiện ở nhân vật những nét đồng dạng với mình,
thích thú được trải nghiệm cùng với những kinh nghiệm sống của nhân vật trong
cuộc sống thường ngày. Chính vì thế, những thói tật của cái Tôi nếu có,
cũng dễ được cảm thông chia sẻ. Thậm chí nó còn xuất hiện dưới dáng vẻ đáng yêu
nữa. Một mặt bằng mới trong nhận thức, quan niệm về con người, trong tiếp nhận
văn học đã xuất hiện mà sự thành thực khi quan sát và miêu tả cái Tôi trong
những sáng tác của Tản Đà là sự mở đầu đầy ý nghĩa.
Hay mà a
Trả lờiXóamáy tính hà nội
màn hình máy tính
mua máy tính cũ
màn hình máy tính cũ