Thứ Hai, 2 tháng 2, 2015

2. TẢN ĐÀ - SẦU MỘNG VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA CÁI TÔI CÁ NHÂN

Vấn đề cái Tôi cá nhân trong văn học cho đến nay vẫn là một đề tài  mở, cho phép song song tồn tại những cách lý giải và quan niệm khác nhau.
         Từ góc độ triết học, có thể nhận thấy: con người ở bất kỳ thời đại nào cũng có chung những nhu cầu cơ bản. Một trong những nhu cầu cơ bản đó là nhu cầu được sống với chính mình. Tuy nhiên, khả năng nhận biết những phương thức để đáp ứng những nhu cầu này ở mỗi nền văn hóa, ở mỗi thời đại là khác nhau. Chính vì thế cái Tôi cá nhân nói chung và cái Tôi cá nhân trong văn học nói riêng là một hiện tượng cần được nhận thức trong những tồn tại lịch sử cụ thể. Văn học nghệ thuật thời trung đại, một mặt, chịu ảnh hưởng của Nho giáo (thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo); mặt khác, với tư cách là tiếng nói của tinh thần của thế giới tâm hồn văn học nghệ thuật còn là mảnh đất để cái Tôi cá nhân hiện diện. Điều này là cần thiết không phải chỉ bởi đặc thù của hoạt động sáng tạo nghệ thuật: luôn gắn liền với vấn đề phong cách, cá tính sáng tạo, gắn liền với những trải nghiệm của cá nhân người cầm bút. Cơ bản hơn, sự hiện diện của cái Tôi cá nhân trong văn học nghệ thuật còn là một nhu cầu để cân bằng cho đời sống tinh thần của con người, giúp anh ta được sống với chính mình, tạm gác bỏ những ràng buộc, những giới hạn của con người chức phận luân thường. Cách đặt vấn đề như trên giúp chúng ta nhìn nhận về cái Tôi cá nhân không chỉ như một phương diện của nội dung tác phẩm mà còn có vai trò như một tiêu chí để phân biệt hai loại văn chương trong văn học trung đại: văn chương chức năng và văn chương nghệ thuật.

         Dấu vết của loại hình văn chương chức năng vẫn tồn tại ở Tản Đà một cách khá rõ nét (chủ yếu ở những tác phẩm thuộc loại văn vị đời) nhưng những sáng tác có ý nghĩa văn học sử quan trọng nhất của ông lại thuộc về loại hình văn chương nghệ thuật. Chính ở những tác phẩm thuộc loại này mà  cái Tôi cá nhân bắt đầu hiện diện như một tiêu điểm thẩm mỹ trong những sáng tác của Tản Đà qua hai phạm trù thẩm mỹ chính: Sầu - Mộng
         1. Không phải đến Tản Đà văn học Việt Nam mới biết đến chữ sầu. Trong văn học truyền thống sầu là một phạm trù thẩm mỹ và ý nghĩa của nó không chỉ là một tầng vỉa nội dung mà, như trên đã nói, còn là một tiêu chí quan trọng để phân biệt giữa văn học mang tính nghệ thuật phân biệt với bộ phận văn học chức năng. Trong bộ phận văn học chức năng con người chức phận đóng vai trò chủ đạo. Tư thế quan phương là tư thế đã được quy định từ trước trong các tác phẩm loại này. Một cách tự nhiên, cái Sầu cũng như những cảm xúc tự nhiên khác của con người cá nhân không có lý do để hiện diện. Nhưng trong những tác phẩm nghệ thuật thì khác. Ở đó con người được sống với cái Tôi riêng tư của mình với những hoài vọng những day dứt, nỗi đam mê và sự khổ đau, những dự phóng và cả những bất thành, dang dở. Dễ hiểu vì sao cái Sầu luôn bàng bạc trong  những tác phẩm mà ở đó tư thế quan phương được thay thế bằng tư thế của một cá nhân với những nếm trải chân thực trong cuộc đời. Sầu, vì thế, là một ô cửa sổ để nhìn vào thế giới của cái Tôi trong văn học trung đại.
1.1 Mạch sầu của Tản Đà, trước tiên, bắt nguồn từ mạch sầu truyền thống. Đấy, thường bắt gặp một cách phổ biến, là cái sầu về kiếp người ngắn ngủi. Tản Đà chấp nhận bi kịch này như một tất yếu của kiếp người, không còn dằn dỗi ông chỉ ngậm ngùi than thở: Ấy ai quay tít địa cầu/Đầu ai nửa trắng nửa pha mầu xuân xanh/Trông gương mình lại ngợ mình/Phải chăng vẫn giống đa tình ngày xưa ( Bài hát xuân tình). Càng về sau này, cảm giác về sự hữu hạn của kiếp người càng giày vò nhà thơ. Nó khiến ông bâng khuâng trước cảnh tượng của bông hoa: Đương ở trên cành bỗng chốc rơi (Hoa rụng); chạnh lòng trước ngôi mả cũ ven đường; ngao ngán, thậm chí, hoảng sợ khi phải đối diện với thực cảnh: Tuyết nhuộm đầu xanh, tóc bạc phơ (Thơ thẩn)... Nhận biết đó là một quy luật chẳng thể đổi khác, Tản Đà thể hiện nỗi tiếc đời bằng lời van xin thời gian chậm bước: Thương thay! xuân chẳng đợi chờ/Tiếc thay! xưa những hững hờ với xuân/Trăm nghìn gửi lại Đông quân/Hãy khoan khoan tới, hãy dần dần lui (Xuân cảm)
         Ý niệm về kiếp người ngắn ngủi mài sắc cảm nhận về thời gian khiến Tản Đà ngay cả khi khai thác những đề tài rất quen thuộc trong truyền thống vẫn có được những nét riêng của mình trong cách khai triển tứ thơ và phô diễn cảm xúc. Cái làm nên không khi bâng khuâng đặc biệt trong Tống biệt không gì khác là những cảm giác về thời gian được cài suốt mạch bài thơ:
-Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
-Trời đất từ đây xa cách mãi
-Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
     Cũng như thế với Thu khuê oán - một đề tài không thể truyền thống hơn được nữa nếu không muốn nói là rất dễ rơi vào sáo cũ và trên thực tế là Tản Đà đã có những câu thơ rất sáo - thì chỗ thoát sáo của ông đấy là điểm nhấn trong cảm nhận về thời gian ở khổ cuối: Ngày tháng đi chóng, năm canh trường/Lác đác sao tàn lấp lánh gương/Trên trời Chức nữ cùng Ngưu lang/Một giải sông Ngân lệ mấy hàng. Hệ thống ngôn từ và thi liệu vẫn là của truyền thống nhưng những cảm nhận thời gian trong một loạt những trích dẫn trên dường như là sự báo trước những tứ thơ chất đầy ám ảnh thời gian trong thơ Mới sau này.
     1.2 Cái sầu về kiếp người ngắn ngủi là cái sầu của nhân sinh phổ quát. Với Tản Đà, mạch sầu này của ông được phô diễn một cách thấm thía hơn khi nó gắn với cái sầu về thân thế sự nghiệp - nỗi sầu được chắt ra từ những trải nghiệm rất riêng của cuộc đời Tản Đà. Là người ôm ấp nhiều cao vọng nhưng thực tế cuộc đời lại khiến Tản Đà nhiều phen phải đối diện với sự lỡ dở, thất bại. Nếu để ý kỹ, càng về cuối đời - khi mà cảm nhận về quỹ thời gian của đời người cất tiếng ngày một riết róng - thì thơ văn của Tản Đà (hơn bao giờ hết) càng ngậm ngùi nỗi buồn của một kẻ trắng tay với cuộc đời. Mỗi độ năm tận, xuân về lại khiến Tản Đà thêm se sắt bởi nó nhắc nhở ông về những gì dang dở, bất thành. Một năm trước khi mất, trong ngày Tết ông Công, kiểm định cuộc đời mình, Tản Đà viết những dòng thành thực nhất cũng là chua xót nhất: Khi làm chủ báo lúc viết mướn/Hai chục năm dư cảnh không cùng/Trần gian thước đất vẫn không có/Bút sắt chẳng hơn gì bút lông/Ngày xanh như ngựa đầu xanh bạc/Chán cả giang hồ hết cả ngông (Tiễn ông Công lên chầu trời). Cũng chính mạch sầu này trở thành cái nhìn nghệ thuật để Tản Đà viết Giấc mộng lớn -cuốn tự truyện về cuộc đời mình. Nhịp chính trong mạch trần thuật của Giấc mộng lớn là những đổ vỡ trong cuộc đời của Tản Đà. Những sự kiện khác chỉ được kể có tính chất điểm xuyết. Cứ sau mỗi lần thất bại, vấp ngã lại thấy Tản Đà thêm một lần chùng xuống mệt mỏi. Kết thúc tác phẩm, thật thấm thía nhưng cũng thật chẳng thanh thản chút nào khi Tản Đà phải đối diện với chân dung tự họa của mình qua đôi câu đối có ý nghĩa như một tổng kết:
         Hơn mười năm bút sắt, bút lông, hao giấy mực chẳng ích gì cho xã hội
         Trải ba xứ đường xe đường bể, trụi râu mày còn thẹn với giang san
         Khép lại cuốn sách là hình ảnh một kẻ không nhà - một khách giang hồ ngoài ý muốn, mỏi mệt trong mọi ước vọng. Một kết thúc mở, nhưng là cho những bi kịch mà ở điểm mút của nó là một cái chết bất thường trong cảnh túng quẫn. Chung cuộc, kinh nghiệm cuộc đời mà Tản Đà thấm thía hơn cả là một  trải nghiệm : “ở đời, chỉ những sự buồn mới là thật” (Xuân như mộng). Ta sẽ còn đề cập đến ý nghĩa mỹ học của hiện tượng này ở phần sau trong sự đối sánh với cõi mộng. Ở đây chỉ xin lưu ý: việc những chất liệu có tính chất tiểu sử của Tản Đà đi vào tác phẩm văn học qua cửa ngõ của cái sầu như trên cho thấy sầu là một phương tiện để cái Tôi thân thế của Tản Đà xuất hiện với tư cách là một phương diện của cái Tôi cá nhân được ý thức.
         1.3 Cô đơn là một âm giai khác của nỗi sầu mà qua đó cái Tôi cá nhân trong những sáng tác của Tản Đà hiện diện. Nhà Nho trong truyền thống do ý thức về phận vị đặc tuyển của mình, do tinh thần tự nhiệm nên những nỗi “tiên ưu” (Nguyến Trãi), những cảnh ngộ “ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ” (ta có tấc lòng không biết nói cùng ai - Nguyễn Du) khiến họ không ít phen phải đối diện với nỗi cô đơn. Mạch khác của nỗi cô đơn được khơi nguồn từ cảm hứng thương thân, xót thân ở Hồ Xuân Hương, nàng chinh phụ, người cung nữ... Sự đa dạng là hiển nhiên nhưng vẫn có một mẫu số chung cho những sầu muộn cô đơn trong truyền thống: chúng thuộc phạm trù cái bi. Đấy là cái cô đơn bi phẫn, ưu uất. Đến Tản Đà, cái cô đơn đã bắt đầu có những nét mới lạ trong cách phô diễn, trong diện mạo. Diễn tả cái cô đơn, ngay cả khi bi lụy nhất, Tản Đà cũng thiên về cái réo rắt, buông lơi. Tâm sự cô đơn vì thế không nén lại, u uẩn mà thường chỉ như một hơi thở nhẹ thoát, bảng lảng: Chiều quá khách chơi về đã vãn/Gốc cây thơ thẩn một mình ngồi (Chơi trại hàng hoa), Mạch sầu canh vắng như tuôn/Nhớ ai nước nước non non bạn tình (Đêm đông hoài cảm), Những ai mặt biển chân giời/Nghe mưa ai có nhớ nhời nước non (Mưa thu đất khách)
Bắt gặp nhiều hơn ở Tản Đà là cái cô đơn trong điệu sầu man mác và không hiếm khi nó được vờn vẽ trong một khung cảnh thiên nhiên đầy gợi cảm: Con đường vô hạn khách đông tây/Ta nhớ ai mà đứng mãi đây (Quê nhà chơi mát cảm hứng), Suối tuôn róc rách ngang đèo/Gió thu bay lá bóng chiều về tây/Chung quang những lá cùng cây/Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm (Vô đề)
Cái cô đơn ở đây rõ ràng không còn thích thú với cung bậc bi thương, chất chứa vẫn thường bắt gặp trong thơ cổ điển mà bắt đầu hướng tới cái du dương, êm ái thi vị đầy mới mẻ. Dường như bắt gặp ở đây một xu hướng mỹ lệ hóa cái cô đơn và đồng nhất nó với những cảm giác bâng khuâng mơ hồ, thậm chí là mơ mộng trong thế giới nội cảm của nhân vật trữ tình. Những nỗi sầu và cô đơn như thế khiến người ta thích thú nếm trải và khám phá. Cái Tôi cá nhân trong bước khởi đầu tìm kiếm chính mình đã hiện ra trong thơ Tản Đà với gương mặt của những nỗi cô đơn duyên dáng và tình tứ như thế. Nó báo trước cho cái tôi - cảm xúc và sự say mê đặc biệt với những cô đơn, sầu khổ của thơ ca giai đoạn tiếp theo.
         2/ 2.1 Cùng với sầu là mộng. Ngay từ rất sớm, trong lời tựa cho cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình: Giấc mộng con, Tản Đà đã tự gọi mình là người mộng. Chỉ cần nhìn vào nhan đề của các tác phẩm (Giấc mộng con I II, Giấc mộng lớn, Xuân như mộng, Nhớ mộng...) cũng có thể dễ dàng nhận thấy: cõi mộng là không gian nghệ thuật đặc trưng cho thế giới nghệ thuật của Tản Đà. Không ít lần ông bàn luận và triết lý về nó. Trong quan niệm của Tản Đà, con người sống trong hai thế giới. Thế giới thứ nhất là thế giới của những gì đã trải biết. Ông gọi đó là “cảnh ngộ ở đời”. Nhưng còn có một thế giới khác, thế giới của những cảnh ngộ: “thân thể chưa trải biết mà ý thức đã đi trước” - những trải nghiệm thuần túy chỉ có trong tưởng tượng. Đây chính là thế giới của mộng. Được gợi ý từ nhãn quan “tề vật luận” của Trang tử, Tản Đà phân biệt: “mộng là cái mộng con, đời là cái mộng nhớn”. Quan điểm về cõi mộng, một lần khác, được thể hiện đầy đủ và hệ thống hơn qua lời của Chu Kiều Oanh:
Con người ta ở trong vũ trụ, hình thể có giới hạn mà tinh thần không có giới hạn. Cho nên lấy hình thể mà nói thời ngoài các sự vật hiện tại ở trước mắt, đều là không có; lấy tinh thần mà nói thời phàm cảm giác còn đi tới, tức không phải giả mà là chân
Mộng trong quan niệm của Tản Đà ở đây có hai điểm đặc biệt quan trọng. Thứ nhất: mộng thuộc về cõi tinh thần, mà cõi tinh thần là “không có giới hạn”. Vậy nên, thế giới của mộng là không có giới hạn, không bị ước thúc bởi những quy tắc của thế giới hiện thực. Thứ hai: mặc dù không thuộc về thế giới hiện thực ở đời nhưng những trải nghiệm trong cõi mộng cũng là một hiện thực - nó “không phải giả mà là chân”.
Điều gì đã khiến Tản Đà quan tâm đến cõi mộng đến độ phải tường giải, thuyết minh về nó một cách trực tiếp và có hệ thống đến như thế trong tác phẩm của mình? Không thể trả lời thấu đáo câu hỏi này nếu không gắn nó với ý thức về cái Tôi. Trong tản văn của mình, Tản Đà nhiều lần triết lý về cái gọi là “thằng người”. Ông nhận thấy đó là một danh xưng cao quý và vì thế công khai giữ một thái độ khinh bạc với sự tồn tại vô nghĩa của những kẻ: “chỉ từ lúc biết ăn cơm, mỗi năm mỗi nhớn lên; lấy một, hai vợ; đẻ ba, bốn con; sống năm, sáu, bảy mươi tuổi; rồi chết, thời nghĩ hơn con lợn kia bao nhiêu?” (Thằng người). Khó chịu đến mức ác cảm với những tồn - tại - vô - nhân - xưng như thế nên dễ hiểu là Tản Đà chủ trương: con người sống ở đời phải quan tâm đến việc: “nuôi cái tài sức, theo cái ý thú, để làm xong cái phận sự mình”. Nhân vật Nguyễn Khắc Hiếu trong Giấc mộng conI khẳng định: “Nếu không có riêng một ý thú, không định được một đích hạn, thời như đội chiếc thuyền nan ra đứng trông cửa bể”. Cái ý thú, cái đích hạn ấy, Tản Đà khao khát có được nó trong cuộc đời thực. Nhưng trong khi chưa được thỏa nguyện, ông có thể tìm thấy nó, được sống với nó một cách thật thỏa nguyện trong cõi mộng. Hai thuộc tính của cõi mộng nói trên: chân thựckhông có giới hạn giúp ông được sống với những gì mà mình ao ước, với những gì mà ông cảm thấy có ý nghĩa trong cuộc đời. Mộng với Tản Đà, do thế, không gì khác là những thể nghiệm bằng tưởng tượng. Không bị ràng buộc bởi những giới hạn trong cuộc đời thực, mộng là môi trường để cái Tôi cá nhân hiện diện với những dự phóng để chiếm lĩnh thế giới lý tưởng, qua đó mà nếm trải khám phá những kích thước, những chân trời mới mẻ.
2.2 Trong và bằng thơ văn, Tản Đà theo đuổi những cuộc chơi cũng là những giấc mộng của riêng mình. Ông tuyên ngôn về nó một cách tự tín và ngông ngạo: Chơi cho biết mặt sơn hà / Cho sơn hà biết ai là mặt chơi (Chơi Huế). Những cuộc chơi của Tản Đà thật đa dạng và khoái hoạt . Có cái chơi của thơ rượu đầy ngất ngưởng: Trời đất sinh ta rượu với thơ/Không thơ không rượu sống như thừa (Thơ rượu). Có cái chơi trong thú giang hồ xê dịch - ở đó cái Tôi của ông tìm thấy mình trong cảnh sắc non nước: Chơi Hòa Bình, Chơi Huế, Nhớ cảnh cầu Hàm rồng...Cái mới mẻ trong những bài thơ nói trên (dù chưa thật nhiều về số lượng) là tư thế của Tản Đà khi đến với thiên nhiên như một khách du để tìm kiếm và thưởng ngoạn cái đẹp. Cảm quan nghệ sĩ này bộc lộ rõ nhất trong những trang du ký bằng tưởng tượng của Tản Đà trong Giấc mộng con I. Những địa điểm như hồ Erié, thác nước Niagara, những chiếc quạt nước ở miền thượng lưu sông Madison...là những nơi mà Tản Đà chỉ biết đến qua sách vở. Tuy nhiên chính khao khát phiêu du để kiếm tìm và thưởng ngoạn những điều mới lạ đã khiến những trang viết của Tản Đà tràn đầy một cảm quan nghệ sĩ với những rung động mãnh liệt. Nhờ vào đó cảnh vật phương xa hiện lên sống động trong những màu sắc, âm thanh đầy quyến rũ. Phương xa hiện lên ở đây như một chân trời đầy hấp dẫn, một tiếng gọi đầy quyến rũ đối với chủ thể. Nhu cầu nhận biết về cái mới lạ đã trở thành dấu hiệu định tính của cái Tôi. Điều này khiến cho thiên nhiên trong những trang mộng ký của Tản Đà tỏ ra còn hấp dẫn và sinh động hơn cả những ghi chép theo lối kỷ thực về xứ lạ của Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác - những người dù đã trực tiếp mắt thấy tai nghe về cảnh sắc phương xa nhưng lại thiếu một cảm nhận từ lăng kính của một tâm hồn nghệ sĩ đích thực.
Hấp dẫn và say mê Tản Đà hơn cả là giấc mộng tình ái. Có cái tình bông lơn chòng ghẹo của khách đa tình trong những bài thơ Đường luật hóm hỉnh như: Nhớ chị hàng cau, Đùa cô sư, Bóp vú đau tay...Có cái tình thoảng qua trong cuộc đời bèo trôi nước chảy không ràng buộc, không trách nhiệm của người khách với Vân Anh (Thề non nước). Có cả cái tình luyến ái ngoài hôn nhân mà thanh tịnh của người tri kỷ giữa Nguyễn Khắc Hiếu và Chu Kiều Oanh (Giấc mộng con). Nét đa tình hiện lên rõ nhất trong Giấc mộng con II, ở đó bên cạnh Nguyễn Khắc Hiếu không chỉ có Chu Kiều Oanh mà còn có rất nhiều những giai nhân khác. Cùng với những mỹ nhân ấy, Nguyễn Khắc Hiếu uống rượu, theo “mệnh lệnh của mỹ nhân” mà làm thơ, nghe “Chiêu quân đánh tỳ bà, Dương Quý Phi say rượu đứng dậy múa. Tây Thi hát”. Tham lam hơn (và vì thế mà cũng thật đáng yêu) khi ông dựng nên những cảnh “Dự tiệc có hơn trăm người mà chỉ có một mình mình không phải là mỹ nhân”. Những cảnh yêu đương trong cõi mộng như trên làm phát lộ cái Tôi đa tình, tục lụy nơi Tản Đà. Con người này lên tiên không phải để thoát tục, để tìm thuốc trường sinh mà để tìm giai nhân, tìm vui, tìm ý thú của chính mình.
Tất cả những miêu tả ở trên cho thấy cõi mộng là không gian ở đó cái Tôi của Tản Đà phơi trải những dự phóng, sở thích của mình. Mộng như thế là phương tiện để thám hiểm những chân trời mới lạ trong thế giới tinh thần của cái Tôi. Đây chính là ý nghĩa mỹ học mới mẻ của thế giới ảo mộng mà Tản Đà đem đến cho văn học thời kỳ này. Bên cạnh đó thế giới mộng còn đảm nhận một chức năng khác. Theo Nguyễn Khắc Xương, Chu Kiều Oanh là hình bóng của cô gái trong mối tình đầu (cũng tên là Oanh) của Tản Đà. Cuộc tình trong đời thực, như chính Tản Đà thuật lại trong Giấc mộng lớn, đã có một kết thúc thật ngang trái. Không có được giai nhân của mình trong đời thực, cõi mộng là nơi để Tản Đà được sống và nếm trải những hương sắc ngọt ngào của thế giới tình yêu. Những mất mát trong đời thực được bù đắp, nhân vật được sống với tất cả những gì mình khao khát, mơ ước kiếm tìm. Sau này trên Nam Phong khi phê bình Giấc mộng con, Phạm Quỳnh nhận xét về Tản Đà: “thân chẳng bằng mộng nên mộng cho cam thân”. Lời lẽ không hẳn đã có sự cảm thông, đồng tình nhưng quả thật đã nói đúng một chức năng đặc biệt trong cõi mộng của Tản Đà.
3. Đâu là mối quan hệ giữa hai phạm trù sầu và mộng trong thế giới nghệ thuật của Tản Đà? Quan trọng hơn mối quan hệ này đem lại những khám phá mới mẻ nào về cái Tôi cá nhân trong những sáng tác của Tản Đà?
3.1. Trên những nét lớn, sầu và mộng là sự triển khai những cảm nhận và khám phá về chính mình của cái Tôi trong hai thế giới: hiện thực và lý tưởng hay nói theo ngôn ngữ của chính Tản Đà: trong giấc mộng lớngiấc mộng con. Việc đặt cạnh nhau của hai thế giới này ngay lập tức cho thấy một sự tương phản gay gắt, một xung đột không thể hòa giải. Cái Tôi trong thế giới của giấc mộng con khoái hoạt, buông phóng, hăm hở, kỳ vọng bao nhiêu thì lại u uất, chán nản bấy nhiêu trong môi trường của giấc mộng lớn. Sự di chuyển giữa hai thế giới này luôn đem đến cho Tản Đà những hẫng hụt, xáo động đầy bất an bởi giữa chúng là vô vàn cách biệt. Cứ mỗi lần tỉnh giấc mộng con để trở về với giấc mộng lớn Tản Đà lại thêm một lần nuối tiếc. Nó làm nên nỗi Nhớ mộng rất đặc trưng cho Tản Đà: Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi/Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi/Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng/Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời. Cái dư vị ngậm ngùi, bàng bạc những tiếc nuối trong Tống biệt, về bản chất, cũng xuất phát từ cảnh huống tỉnh mộng và nhớ mộng này. Đặc điểm trên khiến cho cái Tôi trong những sáng tác của Tản Đà không còn là một gương mặt thuần nhất. Nó là cái Tôi ngơ ngác đi tìm mình trong sự bất hòa giữa thế giới hiện thực và lý tưởng. Tình trạng này biến nó thành một tồn tại cô đơn, nhiều ẩn khuất. Dễ hiểu là vì sao từ sau Tản Đà cái Tôi sẽ trở nên cực kỳ nhạy cảm với trạng thái cô đơn và sầu khổ trở thành nỗi đam mê đặc biệt trong văn học. Không gì khác đó chính là dung môi để cái Tôi bộc lộ mình một cách trọn vẹn nhất. Lẽ tự nhiên những khái quát trên được nhìn thấy rõ nhất trong các tác phẩm của văn học lãng mạn nhưng cũng không nên quên rằng cả trong những tác phẩm hiên thực sự mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng sẽ tiếp tục được đi sâu và thể nghiệm trong những khám phá về cái Tôi cá nhân. Thậm chí, sự thể nghiệm này không chỉ đóng khung trong lĩnh vực văn chương. Sau này, trước cái chết của Tản Đà, tất cả giới cầm bút lúc đó đều bộc lộ một sự xúc động chân thành. Người ta ngưỡng mộ một tài năng, ngậm ngùi về một đấng “trích tiên” cuối cùng nơi dương thế nhưng trong đó không phải không có ít nhiều tâm sự của những kẻ “đồng bệnh tương liên”. Bằng chính cuộc đời của mình họ thấm thía bi kịch của Tản Đà: bi kịch về sự thất thế của những giá trị đẹp đẽ trong một xã hội tư sản hào nhoáng nhưng cũng thật tàn nhẫn lạnh lùng. Khi cái Tôi ý thức về mình thì nó cũng đồng thời nhận diện một cách đầy đủ nhất những giới hạn của mình trong đời sống hiện thực.
3.2. Đâu là điểm thống nhất của cái Tôi giữa tất cả những đối lập sầu - mộng nói trên?
Trong lời tựa cho tiểu thuyết Giấc mộng lớn, Tản Đà công khai bộc lộ quan điểm: “...nghĩ như người ta sinh ra trong đời, không ai dễ có mấy thân, cho nên mình yêu mình là cái tình chung của nhân loại. Một cái yêu mình đó, không cứ đẹp hay xấu, hay hay dở, mà yêu thời cứ yêu”. Ba chữ “mình yêu mình” chính là điểm thống nhất của ngòi bút Tản Đà khi viết về cái Tôi của mình trong mọi biểu hiện. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay Tản Đà đã lấy tên khai sinh của mình làm tên nhân vật chính. Cả trong Giấc mộng lớnGiấc mộng con dù khi viết về kỷ niệm tuổi thơ, thói quen ẩm thực hay những phiêu lưu trong ảo mộng... cái Tôi của Tản Đà luôn xuất hiện với những chi tiết, những sở thích rất riêng tư, đôi khi vụn vặt nhưng bao giờ cũng được thuật lại một cách đầy hứng khởi, say mê. Mọi cảnh huống trong tác phẩm của Tản Đà chỉ là cái cớ để ông giới thiệu, phô diễn về cái Tôi của mình. Thú vị nhất là hư cấu của Tản Đà về Chu Kiều Oanh. Thực chất nhân vật này là một hóa thân của chính Tản Đà trong hình hài của một giai nhân. Tình yêu, sự tán thưởng, kỳ vọng của Chu Kiều Oanh dành cho Nguyễn Khắc Hiếu là một cách để Tản Đà bộc lộ sự say mê của ông đối với chính bản thân mình. Có thể nói đến một Narcissism trong những sáng tác của Tản Đà. Nhà văn công khai bộc lộ sự say mê đối với bản thân mình, lấy cái Tôi của mình làm chất liệu cho mọi khám phá và miêu tả nghệ thuật. Sự tôn thờ và say mê cái Tôi khiến cho Tản Đà và các tác phẩm của ông trở nên đặc biệt khác lạ. Sự ngông nghênh của nó khiến người ta tán thưởng nhưng cũng có không ít những dè dặt, thậm chí là khó chịu trong tiếp nhận. Trên Nam Phong, Phạm Quỳnh bình luận một cách phẫn nộ: “người ta phi cuồng thì không ai trần truồng đi ngoài phố. Nhà làm sách cũng vây, không ai đem thân thế mình mà làm truyện cho người đời xem, nhất là tự mình tán tụng cho mình thì lại càng khó nghe lắm nữa”. Tuy nhiên, chính cái đặc điểm mà Phạm Quỳnh cực lực lên án nói trên lại là đóng góp mới mẻ nhất, quan trọng nhất mà Tản Đà đã đem đến cho văn học: cái Tôi - đến Tản Đà - đã trở thành đối tượng thẩm mỹ trực tiếp và duy nhất cho sự quan sát và miêu tả của nghệ thuật.
Mặt khác, với quan niệm: “không cứ đẹp hay xấu, hay hay dở, mà yêu thời cứ yêu” đã khiến sự say mê cái Tôi ở Tản Đà gắn liền với sự thành thực khi quan sát và mô tả bản thân. Như ta đã thấy ở trên, Tản Đà không hề tô vẽ, ngượng ngập khi nói về mình ở những khía cạnh riêng tư nhất. Đây là lý do giải thích vì sao cái Tôi của Tản Đà như hiện lên trực tiếp trong tác phẩm với những chi tiết thuần túy tiểu sử. Sự thành thực khiến cho cái Tôi hiện lên khi thì bông lơn, tự trào khi lại ngộ nhận một cách hồn nhiên, đa tình mà cũng rất đa đoan với những nỗi riêng, những tâm sự. Cái Tôi vì thế hiện lên với rất nhiều những màu sắc, rất đa dạng và cũng rất sinh động, có hồn. Đây là cơ sở để cái Tôi bắt đầu xuất hiện trong khuôn khổ đời thường, được xét đoán bình giá bằng thước đo của con người bình thường. Người ta thích thú phát hiện ở nhân vật những nét đồng dạng với mình, thích thú được trải nghiệm cùng với những kinh nghiệm sống của nhân vật trong cuộc sống thường ngày. Chính vì thế, những thói tật của cái Tôi nếu có, cũng dễ được cảm thông chia sẻ. Thậm chí nó còn xuất hiện dưới dáng vẻ đáng yêu nữa. Một mặt bằng mới trong nhận thức, quan niệm về con người, trong tiếp nhận văn học đã xuất hiện mà sự thành thực khi quan sát và miêu tả cái Tôi trong những sáng tác của Tản Đà là sự mở đầu đầy ý nghĩa.

1 nhận xét: