Trong khi rất dễ thống nhất khẳng định Hồ Biểu Chánh là một trong những cây
bút mở đầu của văn học, cụ thể hơn của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại thì một vấn
đề vẫn không ngừng được đặt ra: đọc Hồ Biểu Chánh theo tiêu chí nào. Ông là nhà
văn phong tục, nhà văn tả thực hay nhà văn đạo lý? Đằng sau những câu hỏi này
thực chất là sự băn khoăn về tiêu chí để xác định tính chất hiện đại trong những
sáng tác của Hồ Biểu Chánh. Quả thật, đồ thị sáng tác của Hồ Biểu Chánh không
có những dao động đáng kể tính từ điểm khởi đầu cho đến khi kết thúc sự nghiệp
cầm bút. Đặc điểm này, phải chăng đã khiến tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh trở
nên lạc hậu trong nhịp độ hiện đại hóa ngày một gấp gáp của văn học nửa đầu thế
kỷ XX ? Bài viết này sẽ lý giải và chỉ ra những đặc điểm đã khiến Hồ Biểu Chánh
trở thành cây bút tiểu thuyết hiện đại từ góc độ thị hiếu và tâm lý tiếp nhận của
độc giả. Đây cũng là hướng tiếp cận mà những công trình văn học sử hiện nay dù
đã ý thức nhưng, có lẽ, chưa được vận dụng vào trong thực tế nghiên cứu một
cách thỏa đáng và, quan trọng hơn, có hiệu quả khoa học thực sự.
1. Về đại thể, có thể hình dung mô hình tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh theo công thức sau: diễm tình + phiêu lưu + phong tục + đạo lý. Sự đậm nhạt
của những nhân tố trên có thể thay đổi tùy theo từng tác phẩm ở từng thời kỳ
khác nhau nhưng rõ ràng chúng là những căn tố để từ đó Hồ Biểu Chánh xây cất nên
bức tranh thế giới của mình.
Theo Nguyễn Khuê: “Trong Đời của
tôi về văn nghệ, Hồ Biểu Chánh cho biết hồi ông mới bắt đầu viết tiểu thuyết
thì trình độ học thức của quần chúng còn thấp kém, phần nhiều người ta thích đọc
truyện tình và truyện phiêu lưu, còn loại tiểu
thuyết phong tục thì quần chúng chưa biết. Vì thế, ông phải tạm theo sở
thích của độc giả mà viết Ai làm được
là truyện vừa diễm tình vừa phong tục,
và Chúa tàu Kim Quy là truyện phiêu lưu pha diễm tình”[1]. Có
thể rút ra từ thông tin trên hai nhận xét:
Thứ nhất: Hồ Biểu Chánh từ rất sớm đã nhận biết
được thị hiếu của người đọc và, quan trọng hơn, điều này đã chi phối trực tiếp
đến việc lựa chọn nội dung cũng như cách thức viết của ông.
Thứ hai: Nếu bổ sung thêm nhân tố đạo lý như công thức với 4 căn tố mà
chúng tôi đã nêu ở phần mở đầu bài viết thì ta có thể hình dung sự kết hợp giữa
chủ ý của nhà văn và thị hiếu của độc giả trong những sáng tác của Hồ Biểu
Chánh theo mô hình: bề mặt là diễm tình
+ phiêu lưu nhằm hấp dẫn người đọc,
chiều sâu là mục đích miêu tả phong tục
và truyền bá đạo lý. Hai mục đích
này, đặc biệt là mục đích truyền bá đạo
lý là mối quan tâm thường trực khi Hồ Biểu Chánh cầm bút. Trong hồi ký Đời của tôi về văn nghệ, ông khẳng định:
“viết tiểu thuyết để cảm hóa đặng lần lần
dắt quần chúng trở về đường chánh đại quang minh”[2]. Sau
này, nhìn lại chặng đường sáng tác của mình, Hồ Biểu Chánh tự nhận thấy: “Sản xuất cả mấy chục pho tiểu thuyết...,
luôn luôn tôi vẫn theo đuổi theo cái mục đích duy nhất là: Thành nhân với Thủ
nghĩa”[3] và điều
này đã trở thành niềm tự hào được ông nhắc tới trong di chúc của mình: “viết tiểu thuyết ta cũng cố giữ vẹn đạo hiếu
nghĩa”[4]
Sự tham dự của thị hiếu độc giả vào trong hoạt động sáng tác là một dấu
hiệu quan trọng để xác định tính chất hiện đại của Hồ Biểu Chánh. Chúng tôi sẽ còn trở lại với vấn đề
này ở phần sau của bài viết. Ở đây, ta hãy dừng lại để đặt một câu hỏi: trong
tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, chủ ý sáng tác của tác giả và thị hiếu của người đọc
là tách biệt với nhau hay thị hiếu của người đọc được ý thức và chi phối vào tất
cả các nhân tố còn lại? Cụ thể hơn, việc thường xuyên đề cập đến đạo lý phải
chăng không thể chỉ được giải thích từ chủ ý tải đạo của Hồ Biểu Chánh mà còn
được định hướng từ những thị hiếu của người đọc Nam Bộ lúc bấy giờ?
2/2.1 Có không ít những sự kiện cho thấy sự
hứng thú với những vấn đề đạo lý là một đặc điểm của thị hiếu độc giả Nam bộ đầu
thế kỷ.
Từ trong truyền thống, sự mến chuộng đạo lý, đặc biệt là đạo lý Nho giáo đã
là một đặc trưng của văn hóa Nam bộ. Phần thì do Nam bộ là vùng đất mới, con
người thuần phác. Phần thì do Nho giáo ở Nam bộ chưa trở thành khô cứng và hủ bại
như ở miền Bắc. Thêm vào đó là ảnh hưởng một cách hòa bình của người Hoa từ những
cuộc di dân kéo dài trong lịch sử...Bấy nhiêu lý do khiến các khái niệm trung -
hiếu - tiết - nghĩa đã đi vào trong đời sống một cách tự nhiên thân thuộc, lối
sống trọng nghĩa khinh tài trở thành căn bản đạo lý của người dân ở đây[5].
Trong giai đoạn đầu (từ 1917 trở về trước?) khi tiến hành chính sách thực
dân người Pháp chủ trương trực trị, xóa bỏ văn hóa bản địa bằng cách thay vào
đó một nền văn hóa mang tính nô dịch, mất gốc. Sự mến chuộng đạo lý truyền thống
vì thế trở thành nơi tranh chấp giữa cái dân tộc và cái ngoại lai. Chắc chắn
đây là lý do sâu xa để Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt... tiến
hành chuyển ngữ một loạt những tác phẩm Hán văn và phiên từ Nôm sang chữ quốc
ngữ. Chỉ cần nhìn vào tên các tác phẩm cũng đủ thấy thiên hướng đạo lý là thiên
hướng chủ đạo trong các ấn phẩm thời kỳ này. Các kinh sách Hán văn dịch ra quốc
ngữ, chủ yếu gồm: Đại học, Trung dung (1881), Tứ thư (1889), Minh tâm bửu
giám (1893). Các tác phẩm văn học tiêu biểu được phiên từ Nôm sang quốc ngữ:
Lục súc tranh công (1884), Nhị độ mai (1884), Vân Tiên Truyện (1889), Thọai
Khanh – Châu Tuấn (1906), Chiêu Quân
cống Hồ (1906). Muộn hơn một chút là các loại truyện thơ được in đi in lại
nhiều lần với nhiều bản in khác nhau như: Phạm
công – Cúc hoa, Dương Ngọc thơ, Đỗ thập nương thơ, Lục Vân Tiên, Sáu Trọng thơ,
Thơ Sáu nhỏ, Thoại Khanh – Châu Tuấn, Thơ
nàng Út.[6]
Điểm giống nhau của các tác phẩm (chỉ kể riêng các tác phẩm văn học) này là
ở chỗ: thiên trọng về đạo đức, thưởng phạt phân minh, người tốt được báo đáp, kẻ
ác bị trừng phạt. Những tác phẩm buổi đầu này vừa đáp ứng vừa góp phần xác lập
thị hiếu văn học của người dân Nam bộ trong buổi đầu làm quen với văn học viết
bằng chữ quốc ngữ. Chứng cớ là trong ba tác phẩm mở đầu của văn xuôi miền Nam
thì Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng
Quản, đúng như nhận xét của Nguyễn Văn Trung, do kết thúc không có hậu của nó
đã không được thật sự chú ý và ưa thích[7].
Trong khi đó, Hoàng Tố Anh hàm oan của
Trần Thiên Trung và Phan Yên ngoại sử
của Trương Duy Toản với lối viết theo nhân quả báo ứng đã được hưởng ứng một
cách rộng rãi.
2.2 Theo Nguyễn Khuê, Hồ Biểu Chánh nhận
là chịu ảnh hưởng của ba nhà văn tiền bối nói trên nhưng sâu đậm hơn của vẫn là
Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Thiên
Trung bởi khuynh hướng phong tục, cốt truyện li kỳ và nhất là được dàn dựng theo
lối nhân quả báo ứng[8]. Thực
tế sáng tác của ông đã chứng thực điều này và đây là lý do đã khiến ông trở
thành cây bút ăn khách nhất trong suốt 40 năm đầu thế kỷ XX. Không phải không
có lúc Hồ Biểu Chánh muốn tìm một hướng đi mới nhưng thị hiếu của độc giả đã
khiến ông vì thói quen (hay vì cảm nhận được sự bất khả?) đã tiếp tục trượt
theo đường ray quen thuộc: “năm nọ, một
nhà xuất bản tác phẩm của tôi bố cáo với công chúng rằng bộ tiểu thuyết của tôi
sắp ra đời viết theo văn kim thời và bố cuộc theo thể thức mới. Tôi liền được
thơ của bạn đọc tha thiết yêu cầu tôi cứ theo thể thức thuở nay mà viết, đừng đổi
văn đổi sáo chi hết”[9]. Thậm
chí cuốn Tỉnh Mộng của Hồ Biểu Chánh
- vẫn làm một số người đọc không hài lòng vì họ chờ đợi một kết thúc theo kiểu
: thiện ác đáo đầu chung hữu báo một cách triệt để – nghĩa là: Kỳ Tâm phải làm
cho Trường Xuân mất chức và Trường Xuân phải bị tòa án công chúng hành phạt[10].
Lẽ đương nhiên, tác động của thị hiếu độc giả không chỉ ở khía cạnh đạo
lý. Như chúng tôi đã nói nó chi phối vào hầu khắp những nhân tố của thế giới
nghệ thuật. Sự chi phối này được nhận thấy, thậm chí, chỉ qua một thao tác hoàn
toàn chỉ có tính chất kỹ thuật, chẳng hạn: nhận thấy nếu chỉ tả truyện ở nhà
quê thì người ở nông thôn sẽ không thích và ngược lại. Để dung hòa, Hồ Biểu
Chánh đưa ra cách thức: nếu mở đầu truyện ở thôn quê thì kết thúc sẽ ở đô thị,
nếu mở đầu ở đô thị thì kết sẽ ở không gian thôn quê[11]. Chọn
đạo lý làm tiêu điểm để miêu tả về sự tác động của độc giả đến Hồ Biểu Chánh
chúng tôi muốn qua đó lưu ý về một đặc điểm: ngay ở những nhân tố chiều sâu của
tác phẩm, nơi mà nhà văn dường như tự do nhất với những ý đồ sáng tác của mình,
thì sự hiện diện của người đọc vẫn rất đậm nét. Kết quả là: thị hiếu của người
đọc trở thành nhân tố định hướng trực tiếp cho hoạt động sáng tác của nhà văn. Trong
những tiêu chí để xác định tính hiện đại của một nhà văn thì ý thức và sự tôn
trọng thị hiếu của độc giả là một tiêu chí đầu tiên phải được kể đến. Nó cho thấy
tính chuyên nghiệp thực sự của người cầm bút. Dù không hoàn toàn sống bằng
nghề buôn văn bán chữ một cách triệt để như Tản Đà - nhà văn chuyên nghiệp đầu
tiên của văn học miền Bắc - nhưng ở phương diện ý thức về thị hiếu của độc giả
cũng như cảm nhận về áp lực của thị hiếu này với tư cách một người cầm bút thì
Hồ Biểu Chánh lại vượt trội so với Tản Đà. Đây là đặc điểm chỉ có được khi văn
học đã trở thành hàng hóa và thị hiếu của
người đọc ngày một trở thành áp lực đáng kể với người cầm bút. Từ khía cạnh
này, Hồ Biểu Chánh trở thành một đại diện tiêu biểu để nhận diện về một đặc điểm
nổi bật của tính hiện đại trong văn học nửa đầu thế kỷ XX.
3/3.1. Trở lên trên, chúng ta đã cắt nghĩa
thị hiếu ưa chuộng đạo lý của độc giả miền Nam từ những nguồn mạch của truyền
thống, chỉ ra áp lực của thị hiếu này đối với Hồ Biểu Chánh với tư cách là một
nhà văn chuyên nghiệp. Tuy nhiên, không nên quên độc giả của Hồ Biểu Chánh tồn
tại trong một không gian văn hóa ngày càng trở nên khác biệt với truyền thống. Có
thể nhận ra sự biến đổi này qua chính bức tranh đời sống mà Hồ Biểu Chánh đã để
lại trong những tiểu thuyết của ông. Những nhân vật của ông không còn là những
cư dân của làng xã truyền thống. Những miền đất mới đặc biệt là sự phồn hoa của
các đô thị trong một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đem lại cho họ một cảm
quan mới: sự sùng mộ đồng tiền và cùng với nó là những khoái lạc vật chất đầy
cám dỗ. Trong một xã hội như thế thuyết giáo đạo lý là những lời nghịch nhĩ, sống
theo đạo lý là một gây sự với thói tục. Đây là lời dạy bảo của bà Phủ với cô em
dâu của mình: “Ở đời không có hơi nào mà
sợ miệng thiên hạ; họ nói thế nào mặc kệ họ, miễn mình có tiền nhiều, bận áo tốt,
đi xe hơi lớn, đeo hột xoàn nhiều thì thiên hạ họ bẩm dạ kiêng nể”[12]. Mà
đúng thế thật. Bà Phủ, trong truyện, mở miệng là chửi mắng kẻ khác nhưng ai
cũng chịu bà vì bà có tiền. Không chỉ những kẻ hãnh tiến, ít học vấn mới công
khai tôn thờ đồng tiền mà ngay cả những giáo chức - những người vốn được xem là
biểu tượng của đạo lý truyền thống - cũng không ngượng ngập tuyên ngôn về triết
lý sống theo thời, theo tiếng gọi của danh lợi. Đấy chính là bài học đầu đời mà
thầy ký Huy thay mặt những giáo chức dậy bảo cho Hà Tấn Phát: “Đời này là đời danh lợi, là đời kim tiền, từ
lớn chí nhỏ, từ sang chí hèn, thảy đều tranh đua với nhau mà làm cho có tiền,
không kể cách làm đó hiệp nhân nghĩa hay không hiệp. Hễ có tiền rồi thì lo mua
cái danh, không cần xét cái danh đó là trong hay là đục”[13].
Ngay cả những nhân vật chính diện trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh khi được so
sánh với các nhân vật cùng loại trong truyền thống cũng không có được sức mạnh
vững chãi của lòng thiện. Họ hoặc mau nước mắt mà bất lực như Thanh Kiều, Hiếu
Liêm trong Tiền bạc bạc tiền, hoặc chấp
nhận sa ngã ở một mức độ nhất định như cô Thinh trong Lời thề trước miễu, như ông giáo trẻ Hà Tấn Phát trong Ăn theo thuở ở theo thời...Quả thật, tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh là chứng nhân cho sự dịch chuyển của văn hóa Nam bộ từ lối
sống đạo lý, thuần phác sang lối sống thực dụng của thời hiện đại.
Những gì là đặc điểm của các nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thì
cũng là những đặc điểm của những độc giả của ông trong đời thực. Vậy, điều gì đã khiến những độc giả
miền Nam nửa đầu thế kỷ XX, trong khi say sưa với những lạc thú vật chất, trong
khi luôn bị ám ảnh bởi tiếng gọi của tiền bạc lại dừng lại thành thực yêu chuộng
những câu chuyện đạo lý truyền thống - một thứ truyền thống dường như không hiếm
khi đã trở thành khuôn sáo, thậm chí duy cảm đến độ mùi mẫn của Hồ Biểu Chánh?
3.2 Chỉ có thể lý giải về hiện tượng này
khi đặt nó trong văn cảnh của tính đại chúng trong văn học miền
Nam nửa đầu thế kỷ XX. Tính đại chúng là một phạm trù văn hóa của xã hội hiện đại.
Không đơn giản để minh định phạm trù này dù chỉ trên những nét sơ lược. Dù sao
đi nữa, trong văn học tính đại chúng xuất hiện khi hội đủ những yếu tố sau:
-một thứ văn tự có tính chất phổ thông
-một tầng lớp công chúng có nhu cầu thưởng thức văn học một cách thường
xuyên và có điều kiện ( đặc biệt là hai nhân tố: thời gian rỗi, tiền bạc) để thỏa
mãn nhu cầu này. Nhu cầu của lớp công chúng này sẽ dẫn đến sự xuất hiện của một
đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp.
-sự phát triển của in ấn, nhà xuất bản, hệ thống phát hành đóng vai trò làm
cầu nối giữa nhà văn và độc giả.
-một sự thay đổi căn bản trong nhận thức về chức năng của văn học. Chức
năng lớn nhất của văn học đại chúng mà cả độc giả và người cầm bút đều hướng đến
là để thỏa mãn nhu cầu giải trí (entertainment) và thoát khỏi hiện thực khô cằn
trong một thời điểm ngắn ngủi (escape). Điều này giải thích vì sao văn
học đại chúng đặc biệt thích thú với các đề tài: phiêu lưu, tình dục, viễn tưởng... hoặc thích thú khai thác những
công thức dù sáo mòn nhưng luôn nhận được sự chia sẻ hào hứng từ độc giả: ở hiền gặp lành, sức mạnh của lòng Thiện,
tình yêu luôn chiến thắng, sức mạnh cảm hóa của những giá trị tinh thần cao cả...Đây
không chắc là những giá trị có chức năng định hướng cho hoạt động của con người
trong cuộc đời thực. Đơn giản, nó có giá trị thư giãn, giảm stress, đưa lại cho
con người một thế giới hư ảo lãng quên khuôn mặt thực của đời sống.
Tôi sẽ không dừng lại để chứng minh cho sự hiện diện của ba nhân tố đầu
tiên trong văn học miền Nam nửa đầu thế kỷ XX - điều mà đã được nhiều công
trình văn học sử xác nhận. Riêng nhân tố cuối cùng, do nhiều nguyên nhân mà chúng
ta vẫn ngần ngại khi nói đến một thứ văn học chỉ đặt trọng tâm ở chức năng giải
trí. Nhưng chính vì thế mà chúng ta đã không lý giải đúng, hay ít nhất là rơi
vào sự lúng túng khi lý giải về không ít những hiện tượng của lịch sử văn học. Tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh là một hiện tượng như thế. Trong khi không thể chối bỏ sự
hấp dẫn kỳ lạ từ những tiểu thuyết của ông, người ta vẫn thấy “áy náy” trước sự
đơn giản, thậm chí khuôn sáo của những cốt truyện. Một sự non nớt của tiểu thuyết
buổi đầu phôi thai - chúng ta vẫn thường lý giải về đặc điểm này như thế. Trong khi đòi hỏi Hồ Biểu Chánh phải đáp ứng
những tiêu chí văn học của một trường phái, một phạm trù văn học nào đó chúng ta dường như đã không chịu/
không muốn nhận ra một thực tế: tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thuộc về một loại
hình văn học khác: văn học đại chúng.
Thực thế, bởi nhiều lý do, Nam bộ là
nơi sớm nhất và sâu sắc nhất trong toàn quốc đã thưởng thức văn học như một
hình thức giải trí. Không ngẫu nhiên mà tiểu thuyết trinh thám đã xuất hiện đầu
tiên ở miền Nam. Không ngẫu nhiên mà một cuốn tiểu thuyết đậm màu sắc tính dục
như Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng
Mưu đã xuất hiện từ năm 1912. Cuốn tiểu thuyết bị tịch thu tiêu hủy nhưng đề
tài và cách tiếp cận của nó lại xuất hiện trở lại với Hà Hương hoa nguyệt của Nam Tùng Tử năm 1926[14]. Mà
cũng không chỉ riêng văn học. Các loại hình nghệ thuật giải trí khác như như
sân khấu: tuồng, cải lương cũng được đặc biệt sùng mộ. Nguyễn Văn Xuân, trong
công trình khảo cứu nổi tiếng của mình đã nhắc đến quang cảnh tại các rạp cải
lương với đám đông “chen nhau mua vé dù
giá rất đắt, đắt không thể tưởng tượng được với túi tiền miền Trung”[15].
Trên nền văn học, văn hóa đại chúng ấy, tiểu thuyết đạo lý của Hồ Biểu Chánh xuất
hiện. Như một nhánh. Tuy nhiên, tài năng và sức viết dồi dào của ông đã khiến
nó trở thành một chủ lưu. Nếu như trong văn học truyền thống đối lập cơ bản
trong cấu trúc văn học dân tộc là đối lập giữa văn học dân gian và văn học
viết thì trong văn học hiện đại đối lập chủ yếu sẽ là văn học đại chúng và văn học
đặc tuyển. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chính là minh chứng cho sự biến đổi
này.
3.3 Chúng ta đã nói đến sự tôn trọng thị
hiếu của người đọc như một dấu hiệu để xác định tính hiện đại trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh. Đến đây, cần bổ sung thêm một tiêu chí khác của tính hiện đại: tính
đại chúng. Và theo tôi, chính tính đại chúng mới là bản chất đích thực
của những sáng tác của Hồ Biểu Chánh. Chỉ từ cách đặt vấn đề này mới giúp ta lý
giải được vì sao tiểu thuyết đạo lý với kết thúc có hậu, nhân quả báo ứng của Hồ
Biểu Chánh lại được sùng mộ như thế trong một xã hội mà tính thực dụng đã trở
nên hết sức nồng đậm.
Như ta đã thấy, truyền thống Hồ Biểu Chánh sau này không còn được tiếp tục
ở văn học miền Nam. Tuy nhiên, có lẽ không thể lý giải hiện tượng này chỉ từ lập
luận cho rằng lối viết của Hồ Biểu Chánh đã bị vượt qua. Nói cho đúng thì còn bởi
một nguyên nhân khác: một tài năng như thế trong đội ngũ những người cầm bút Việt
đã không xuất hiện nữa. Nhưng thị hiếu của người đọc thì không vì thế mà chịu
ngủ quên. Để thay thế, người ta quay sang đọc Kim Dung và Quỳnh Dao - tiếp nối
truyền thống đọc văn học dịch Trung Quốc đầu thế kỷ. Và cũng không nên nghĩ rằng
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh chỉ là hiện tượng cá biệt của văn học miền Nam.
Trên thực tế, muộn hơn một chút về thời gian, người ta cũng bắt gặp một hiện tượng
tương tự ở văn học miền Bắc mà nhiều người vẫn gọi với một định danh không thật
trọng thị: tiểu thuyết người hùng của
Lê Văn Trương (chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề này trong một bài viết khác). Ở
đây, nhắc đến Lê Văn Trương chỉ để lưu ý một kết luận: văn học đại chúng đã trở
thành một hiện tượng chung của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Đó, theo
chúng tôi, là một thực tế khách quan.
4. Tính đại chúng trong các tiểu thuyết đạo lý đã khiến Hồ
Biểu Chánh có một khác biệt đáng kể với những cây bút “tải đạo” trong truyền thống.
Những bậc tiền bối của ông, Nguyễn Đình Chiểu chẳng hạn, cầm bút với niềm tin về
đạo lý như một chân lý hằng tồn. Đạo lý trong những trang viết của Nguyễn Đình
Chiểu có sức mạnh của một tín niệm được xã hội thừa nhận. Không còn một điểm tựa
như thế đối với Hồ Biểu Chánh. Ông dường như đã nhận ra một thực tế oái oăm: đạo
lý chỉ là một câu chuyện kể, một ấn phẩm thỏa mãn một thị hiếu của người đọc.
Từ
một tín niệm trở thành một thị hiếu. Đấy chính là đặc điểm cho những tiểu thuyết
đạo lý của Hồ Biểu Chánh nhìn từ phía tiếp nhận của người đọc. Đạo lý
không còn là một giá trị định hướng mà chỉ như một phương tiện để thư giãn. Nó không tồn tại trong hiện thực
mà chỉ nương náu trong tác phẩm. Nó gắn bó với nhân sinh chỉ trong và bằng sự đọc. Thay cho việc hành thiện, người
ta đọc về cái thiện. Họ sống với nó trong sự ngắn ngủi của những phút
giây thư giãn, nhàn rỗi. Chính điều này đã đưa lại tâm trạng bất an của Hồ Biểu
Chánh lúc cuối đời khi phải đối diện với sự mất giá của đạo lý dội đến từ thực
tế đời sống. Dấu vết của sự bất an này để lại rất rõ trong những sáng tác của
ông. Trong hơn 60 cuốn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, chúng tôi đặc biệt lưu ý
tiểu thuyết Ăn theo thuở ở theo thời
(viết năm 1935). Nhân vật Hà Tấn Phát trong đó là một nhân vật có lương tâm chức
nghiệp nhưng vì không chịu ở theo thời nên bị các bạn đồng nghiệp và các viên
chức tổng làng ghét bỏ. Sau khi lịch duyệt việc đời, có nhiều dịp so sánh luân
lý theo sách vở với luân lý ngoài đời, chàng đi tới thái độ: “Thiên hạ cư xử thế nào, em cũng cư xử theo họ
như vậy. Tuy vậy mà dầu làm theo thiên hạ chớ cái gốc đạo đức em vẫn nắm vững bền,
cái lòng nghĩa nhân em vẫn nuôi kỹ lưỡng. ... Đối với thiên hạ thì em cũng là một
“thằng điếm trong chợ xã hội” này như họ vậy, nhưng mà thằng điếm có lương tâm,
có nhơn nghĩa”[16]. Cái
mệnh đề “thằng điếm có lương tâm có nhơn
nghĩa” thật tù mù. Và đúng là nói nhân nghĩa trong xã hội kim tiền quả là một
sự tù mù! Cũng như nhân vật của mình, Hồ Biểu Chánh nói đến nhân nghĩa có lẽ để
tìm sự yên tâm hơn là một sự tin tưởng. Không thể chua chát hơn, người nổi tiếng
với tư cách nhà văn đạo lý rốt cuộc lại là người đầu tiên nói và chiêm nghiệm một
cách thấm thía về sự khó dung hòa giữa lẽ đời và đạo lý. Tâm sự này thấy rất rõ
trong bức thư ông xin từ chức Hội trưởng Khổng Tử tế tự, viết năm 1948: “...trót 40 năm nay tôi ôm ấp cái tham vọng duy
trì luân lý Nho giáo. Không nệ ngòi bút yếu ớt, không nệ học thức hẹp hòi, tôi
hăng hái gieo rắc hột giống nhân nghĩa của Khổng Mạnh trong xã hội,(...) đuổi theo cái mục đích duy nhất là “thành
nhân với thủ nghĩa”(...) Ấy vậy, con thuyền nhân nghĩa của ta nếu đi
thẳng thì hiu quạnh lẻ loi mà đi bát thì hay đi cậy thì ngược dòng ngược gió.(...)Lúc
sau nầy tôi thường tự hỏi với tôi: Ta có nên cậm cụi gìn giữ mãi cái luân lý
nhân nghĩa, giữa lúc chung quanh ta thiên hạ đua nhau thờ Kim ngân?(...)
Trước tình thế hiện tại và tương lai như vậy, tôi xét lại việc làm của tôi mấy
mươi năm nay, rồi tôi khủng hoảng tinh thần, thầm lo sợ có lẽ tôi đi lạc đường
lạc lối”[17].
Sự bất an trên của Hồ Biểu Chánh cũng là một đặc điểm của những cây bút
hiện đại - những kẻ sáng tác trong ám ảnh về sự mất giá của những giá trị đạo đức
truyền thống. Trong nền văn học đại chúng, thị hiếu của độc giả vừa là mục tiêu
hướng đến vừa là cội nguồn bi kịch của người cầm bút. Là một trong những người
nếm trải đầu tiên nhưng chắc chắn Hồ Biểu Chánh không hề cô đơn với kinh nghiệm
cầm bút này. Theo nghĩa ấy, Hồ Biểu Chánh chưa hề bị vượt qua, ông vẫn đồng
hành với những người cầm bút hôm nay./.
Đồng Xa 26/3/06
Nguồn: “Hồ Biểu Chánh và thị hiếu độc
giả”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 2.2008, tr. 87-90, 97. Vì vấn đề số
trang nên bản in trên Văn hóa nghth đã bị lược bớt. Đây là bản đầy đủ.
[1] Nguyễn Khuê - chân dung Hồ Biểu Chánh - NXB Lửa thiêng
- Sài Gòn - 1974 - tr.171. Các khái niệm được in nghiêng để nhấn mạnh là của
người viết.
[2] Nguyễn Khuê - Tldd -
tr.295
[3] Nguyễn Khuê - Tldd -
tr.302
[4]Nguyễn Khuê - Tldd - tr.
296
[5] Xem Nguyễn Văn Xuân - Khi những lưu dân trở lại - trong Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân - NXB Đà nẵng
- 2002
[6] Một
miêu tả cụ thể về những tác phẩm này, xin xem: Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh - Tập II - năm 1998 - tr. 266
- 289; Tiểu thuyết Nam bộ cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX - Nguyễn Kim Anh chủ biên - NXB Đại học quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh - năm 2004 - tr. 114-116.
[7] Nguyễn
Văn Trung - Về các loại truyện viết bằng
chữ quốc ngữ vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ở Việt Nam - trong sách Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX - tập
1 -
Cao Xuân Mỹ sưu tầm - NXB văn
nghệ thành phố Hồ Chí Minh & Trung tâm nghiên cứu quốc học - năm 1999 -
tr.689
[8] Nguyễn
Khuê - Tldd -tr.32
[9]Nguyễn Khuê - Tldd -tr. 308
[10] Kim Anh - Tldd -tr.882
[11] Nguyễn Khuê - Tldd -
tr.272. Cũng xem Bằng Giang - Mảnh vụn
văn học sử - Nxb Chân lưu - 1974 - tr186.
[12] Hồ Biểu Chánh - Tiền bạc bạc tiền - trong Văn xuôi Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX - Tldd
- tr.221
[13] Hồ Biểu Chánh - Ăn theo thuở ở theo thời - NXB Văn hóa
Sài Gòn - năm 2005 - tr.50
[14] Xem Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945) -
Vũ Tuấn Anh và Bích Thu chủ biên - NXB Văn Học - 2001 - tr.47-49 và 141-144.
[15] Nguyễn Văn Xuân - Tldd -
tr 538
[16] Hồ Biểu Chánh - Ăn theo thuở ở theo thời - tldd -tr.
170,171
[17] Nguyễn Khuê - Tldd - tr.
301-303
Cám ơn bài viết của thầy ạ. Em đang tìm hiểu về những đặc điểm của văn học Nam bộ, nhờ bài viết này em thấy mình hiểu rõ hơn nhiều ạ ^^.
Trả lờiXóa